1900599979

HƯỚNG DẪN CỦA IBA VỀ XUNG ĐỘT LỢI ÍCH TRONG TỐ TỤNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

 

Được Hội đồng Hiệp hội Luật sư Quốc tế phê duyệt ngày 22 tháng 5 năm 2004

Giới thiệu

PHẦN I: Các tiêu chuẩn chung liên quan đến sự Vô tư, Độc lập và Công khai

PHẦN II: Việc áp dụng thực tế các tiêu chuẩn chung

  1. Danh sách đỏ không miễn trừ
  2. Danh sách đổ miễn trừ

2.1        Mối quan hệ của trọng tài viên đối với tranh chấp

2.2        Lợi ích trực tiếp và gián tiếp của trọng tài viên trong tranh chấp

2.3        Mối quan hệ của trọng tài viên với các Bên hay luật sư

  1. Danh sách da cam.

3.1. Các dịch vụ trước đây dành cho một trong các bên hoặc một bên liên quan trong vụ kiện

3.2. Các dịch vụ hiện nay dành cho các bên

3.3. Mối quan hệ giữa một trọng tài viên với một trọng tài viên khác hoặc với luật sư

3.4. Mối quan hệ giữa trọng tài viênvà một Bên liên quan khác trong tố tụng trọng tài

3.5.Các trường hợp khác

  1. Danh sách xanh

4.1. Các quan điểm pháp luật đã từng được trình bày trước đây

4.2. Các vụ trước đây chống lại một bên

4.3. Các vụ hiện nay của một trong các bên

4.4. Sự liên lạc giữa trọng tài viên khác hoặc với luật sư đối với một trong các bên

5.      Sự liên lạc giữa trọng tài viên và một trong các bên

Giới thiệu

  1. Vấn đề xung đột lợi ích đang ngày càng gây nhiều thách thức đối với trọng tàiquốc tế. Các Trọng tài viên thường không chắc chắn về các việc cần công bố và họ có thể có những lựa chọn khác nhau về việc công khai hơn các trọng tài khác trong một tình huống tương tự. Sự tăng trưởng của thương mại quốc tế và cách thức tiến hành thương mại bao gồm sự kết hợp các mối quan hệ giữa các doanh nghiệp và các công ty luật quốc tế ngày càng lớn hơn đã tạo ra sự công khai hơn  và tạo ra nhiều vấn đề xung đột lợi ích khó khăn hơn. Các bên có nhiều cơ hội hơn để sử dụng sự phản đối của trọng tài để trì hoãn quá trình trọng tài hoặc phủ nhận trọng tài viên do bên đôi kháng lựa chọn. Việc công khai các mối quan hệ cho dù có nghiêm trọng hay không thường dẫn đến những sự phản đối, rút lui hay loại bỏ trọng tài viên.

  1. Vì vậy, các Bên, trọng tài viên, các tổ chức và tòa án phải đối mặt với những quyết định phức tạp về việc công khai tiết lộ cái gì, và đâu là tiêu chuẩn để áp dụng. Thêm vào đó, các tổ chức và tòa án phải đối mặt với những quyết định rất khó khăn nếu có sự phản đối sau khi công bố. Có sự mâu thuẫn giữa một bên là quyền công bố của các bên mà có thể trở thành vấn đề về sự khách quan hay độc lập của trọng tài viên và quyền hạn của họ được xét xử công bằng với một bên là quyền lựa chọn là quyền lựa chọn trọng tài của các bên. Mặc dù luật và các quy tắc tố tụng trọng tài có quy định một số tiêu chuẩn nhưng vẫn thiếu chi tiết trong hướng dẫn và sự thiếu thống nhất trong việc áp dụng. Vì vậy các, thành viên trong cộng đồng trọng tài quốc tế thường xuyên áp dụng các tiêu chuẩn khác nhau khi đưa ra các quyết định liên quan đến công khai và phản đối.

  1. Đó sẽ là lợi ích của tất cả mọi người trong cộng đồng trọng tài quốc tế khi quá trình tố tụng trọng tài không bj can rtrở bởi các vấn đề xung đột lợi ích ngày càng gia tăng. Ủy ban về trọng tài và ADR của Hiệp hội Luật sư Quốc tế đã chỉ định một Nhóm làm việc gồm 19 chuyên gia trong trọng tài quốc tế đến từ 14 nước để nghiên cứu luật quốc gia, các quyết định của tòa án, các quy tắc tố tụng trọng tài và các vấn đề áp dụng thực tiễn liên quan đến sự khách quan và độc lập, công khai trong trong tố tngj trọng tài quốc tế với mục đích hỗ trợ quá trình ra quyết định. Nhóm làm việc đã đi đến quyết định rằng các tiêu chuẩn hiện nay thiếu sự rõ ràng cần thiết và sự thống nhất trong việc áp dụng. Vì thế, nhóm đã chuẩn bị Hướng dẫn này quy định một số Tiêu chuẩn Chung và những chú thích giải thích về các tiêu chuẩn. Hơn nữa, Nhóm làm việc cũng tin rằng có sự nhất quán hơn và ít có sự phản đối, rút lui hay loại bỏ trọng tài viên hơn có thể đạt được bằng việc đưa ra một danh sách các tình huống cụ thể mà theo quan điểm của nhóm làm việc  thì những tình huống này có thể đảm bảo hoặc không đảm bảo tính công khai hoặc tư cách của trong tài viên. Danh sách đó – Đỏ, Da cam và xanh (gọi là “Danh sách áp dụng”) – sẽ có tại phần cuối của hướng dẫn này.

  1. Hướng dẫn thể hiện cách hiểu của Nhóm Làm việc về thực tiễn quóc tế hiện nay bắt nguồn từ những nguyên tắc đã được miêu tả trong Tiêu chuẩn Chung. Nhóm Làm việc đã xây dựng Tiêu chuẩn Chung và Danh sách Áp dụng dựa trên những đạo luật và các án lệ và dựa trên các phán quyết và kinh nghiệm của các thành viên trong Nhóm Làm việc và của những người khác liên quan trong cộng đồng trọng tài thương mại quốc tế. Nhóm Làm việc cũng đã cố gắng cân bằng lợi ích khác nhau của các bên, các đại diện, trọng tài viên và các tổ chức trọng tài – những người có trách nhiệm phải đảm bảo sự toàn vẹn, dang tiếng và hiệu quả tố tụng của trọng tài thương mại quốc tế. Đặc biệt Nhóm Làm việc cũng đã tìm và xem xét quan điểm của nhiều tổ chức trọng tài hàng đầu cung như các tòa án và những người khác có liên quan đến trọng tài quốc tế. Nhóm Làm việc xuất bản bản thảo hướng dẫn và tìm thu thập những ý kiến nhận xét tại cuộc họp thường niên của Hiệup hội Luật sư Quốc tế và các cuộc họp khác của trọng tài viên. Trong khi các ý kiến mag nhóm làm việc nhận được rất đa dạng và có cả một số quan điểm chỉ trích thì cộng đồng trọng tài nói chung rất ủng hộ và khuyến khích những nỗ lực của Nhóm Làm việc nhằm hỗ trợ làm giảm thiểu  các vấn đề xung đột lợi ích ngày càng gia tăng. Nhóm Làm việc đã nghiên cứu tất cả các ý kiến bình luận nhận được và đã áp dụng nhiều trong số những những đề xuất mag nhóm đã nhận được. Nhóm Làm việc thực sự rất cảm ơn sự quan tâm đến những đề xuất của Nhóm của rất nhiều tổ chức và cá nhân trên toàn thế giới và cảm ơn tất cả những ý kiến nhận xét và những đề xuất mà nhóm nhận được.

  1. Ban đầu, Nhóm Làm việc đã phát triển Hướng dẫn tố tụng trọng tài thương mại quốc tế. Tuy nhiên, với những ý kiến mà Nhóm nhận được, Nhóm đã nhận ra rằng Hướng dẫn này nên được áp dụng bình đẳng cho cả các loại tố tụng trọng tài khác như tố tụng trọng tài đầu tư (khi loại này có thể không được coi là tố tụng trọng tài thương mại).

  1. Những Hướng dẫn này không pahỉ là những quy định pháp lý và không có quyền cao hơn luật quốc gia ap dụng và các quy tắc tố tụng trọng tài được lựa chọn bởi các bên. Tuy nhiên, Nhóm Làm việc hy vọng rằng những Hướng dẫn này sẽ được chấp nhận trong cộng đồng trọng tài quốc tế (giống như trường hợp của Quy tắc về thu thập bằng chứng của IBA trong Tố tụng trọng tài thương mại quốc tế) và rằng họ vì vậy sẽ giúp được các bên, những người thực hiện, trọng tài viên, các tổ chức và các tòa án trong quá trình ra quyết định của họ về các vấn đề rất quan trọng về tính khách quan, độc lập, công khai, phản đối. Nhóm Làm việc tin rằg Hướng dẫn sẽ được áp dụng với sựu thống nhất chung nhanh chóng và khôgn có một sự mô phạm và cách giải thích mang tính hình thức nào. Nhóm Làm việc cũng đang xuất bản một cuốn sách mang tên Kiến thức chung và Lịch sử miêu tả những nghiên cưu của nhóm làm việc và có thêr nó sẽ có ích trong việc giải thích Hướng dẫn.

  1. IBA và Nhóm Làm việc coi Hướng dẫn này là sự khởi đầu chứ không pahỉ là sự kết thúc của một quá trình. Các danh sách áp dụng bao gồm rất nhiều cac tình huống khác nhau thường xảy ra trong thực tế nhưng danh sách này không có nghĩa là hoàn hảo. Tuy nhiên, Nhóm Làm việc cũng tự tin rằng Danh sách Áp dụng sẽ cung cấp những hướng dẫn cụ thể hơn Tiêu chuẩn Chung (và chắc chắn cụ thể hơn các tiêu chuẩn hiện hành). IBA và Nhóm Làm việc đã thu thập những lời nhận xét về việc sử dụng thực tế các Hướng dẫn và họ định bổ sung, sửa đổi, sàng lọc các Hướng dẫn dựa trên những kinh nghiệm thực tế đó.

  1. Năm 1987, IBA đã xuất bản Quy tắc về Đạo đức dành cho các Trọng tài viên Quốc tế. Bộ quy tắc này đề cập nhiều chủ đề hơn trong Hướng dẫn này và chúng vẫn còn hiệu lực đối với những vấn đề không được nói đến trong Hướng dẫn. Hướng dẫn đã thay thế Quy tắc về Đạo đức đối với các vấn đề được nhắc đến ở đây.

PHẦN I: CÁC TIÊU CHUẨN CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN SỰ VÔ TƯ, ĐỘC LẬP VÀ CÔNG KHAI

(1)         Nguyên tắc chung

Mỗi trọng tài viên đều phải vô tư và độc lập với các bên tại thời điểm chấp nhận sự chỉ định là trọng tài viên và vẫn phải giữ được những phẩm chất này trong toàn bộ quá trình tố tụng trọng tài cho đến khi quyết định cuối cùng được đưa ra hay quá trình tố tụng kết thúc

Giải thích Tiêu chuẩn 1:

            Nhóm Làm việc tuân theo những hướng dẫn trong nguyên tắc cơ bản trong tố tụng trọng tài quốc tế, theo đó mối trọng tài viênphải vô tư và độc lập với các bên tại thời điểm trọng tài viên này chấp nhận sự chỉ định là trọng tài phải giữ được những phẩm chất này trong toàn bộ quá trình tố tụng trọng tài. Nhóm Làm việc đã xem xét xem liệu nghĩa vụ này có nên mở rộng trong suốt thời gian mà phán quyết có thể bị khước từ nhưng Nhóm vẫn chưa có quyết định về vấn đề này. Nhóm Làm việc theo quan điểm cho rằng nghĩa vụ của trọng tài kết thúc khi Hội đồng trọng tài đưa ra phán quyết cuối cùng hoặc quá trình tố tụng vì một lý do nào đó đã kết thúc (ví dụ như đã hòa giải). Nếu sau khi hủy một vụ kiện và bắt đầu một vụ kiện mới, tranh chấp được tham chiếu tới cùng một trọng tài viên thì một vòng tiết lộ công khai mới có thể cần thiết.

(2)               Xung đột lợi ích

(a)          Một trọng tài viên phải từ chối chấp nhận sự chỉ định hoặc nếu vụ tố tụng trọng tài đã bắt đầu thì phải từ chối tiếp tục vai trò là trọng tài viên nếu anh ấy hoặc cô ấy có bất kỳ nghi gờ nào về khả năng có thể vô tư và độc lập của mình.

(b)         Nguyên tắc tương tự cũng được áp dụng nếu có những sự kiện tình huống tồn tại hoặc phát sinh từ khi chỉ định mà từ quan điểm của một người thứ ba có hiểu biết về những sự kiện liên quan cho thấy  những nghi ngờ hợp lý về sự vô tư hay độc lập của trọng tài viên, trừ trường hợp các bên chấp nhận trọng tài viên theo những yêu cầu được quy định trong Tiêu chuẩn chung (4).

(c)          Những nghi ngờ được coi là chính đáng nếu một bên thứ ba hợp lý có kết luận rằng có khẳ năng trọng tài viên sẽ bị anh rhưởng bởi những nhân tố ngoài nội dung của vụ kiện như đã được trình bày bởi các bên khi đưa ra quyết định của mình.

(d)               Phải có những nghi ngờ chính đáng về tính vô tư và độc lập của trọng tài viên nếu có sự giống nhau giữa một bên và trọng tài viên. Nếu trọng tài viên có lợi ích cá nhân hoặc tài chính đáng kể trong vấn đề đó.

Giải thích Tiêu chuẩn 2:

(a)     Đó là nguyên tắc đạo đức cơ bản của mỗi trọng tài viên mà sự thiên vị thực sự từ quan điểm của mỗi trọng tài viên phải dẫn đến việc trọng tài từ chối sự chỉ định làm trọng tài. Tiêu chuẩn này phải được áp dụng bất kể đang ở tiêu chuẩn nào của quá trình tố tụng trọng tài. Nguyên tắc này hiển nhiên đên nỗi nhiều luật quốc gia không có quy định rõ ràng về vấn đề này. Xem ví dụ Điều 12, Luật Mẫu UNCITRAL. Tuy nhiên, Nhóm làm việc đã kết luận điều đó trọng Tiêu chuẩn Chung vì những quy định rõ ràng trong Hướng dẫn này giúp tránh được sự nhầm lẫn và tạo sự tự tin trong quá trình tố tụng trước Hội đồng trọng tài. Thêm vào đó, Nhóm Làm việc cũng tin rằng tiêu chuẩn rất rộng về

“bất kỳ nghi ngờ nào về khả năng có thể vô tư và độc lập” sẽ dẫn đến viêc trngj tài viên phải từ chối sự chỉ định làm trọng tài.

(b)     Để các tiêu chuẩn có thể được áp dụng một cách thống nhất, Nhóm Làm việc tin rằng việc kiểm tra tư cách trọng tài phải được thực hiện một cách khách quan. Nhóm Làm việc sử dụng cụm từ “sự vô tư hay độc lập” (impartiality àn independence) bắt nguồn từ Điều 12, Luật Mẫu UNCITRAL vè việc sử dụng việc kiểm tra vẻ bề ngoài dựa trên những nghi ngờ chính đáng về sự vô tư hay độc lập của trọng tài viên như quy định trong Điều 12(2) Luật Mẫu UNCITRAL được áp dụng một cách khách quan (“sự kiểm tra của một người thú 3 hợp lý”). Như được nói trong phần giải thích Tiêu chuẩn Chung 3(d), tiêu chuẩn này được áp dụng tại bất kỳ giai đoạn nào trong quá trình tố tụng trọng tài.

(c)     Hầu hết các luật và các quy tắc áp dụng tiêu chuẩn về sự ngi ngờ hợp lý đều không có những quy định them về tiêu chuẩn đó. Nhóm Làm việc tin rằng Tiêu chuẩn Chung này sẽ có một số quy định phục vụ cho quá trình quyết định này.

(e)          Nhóm làm việc ủng hộ quan điểm cho rằng không ai được cho phép trọng tài xét xử cho chính bản thân mình; ví dụ như không thể có sự gốing nhau giữa một trọng tài viê và một bên. Nhóm Làm việc cũng tin rằng trường hợp này có không thể bị các bên khước từ. Nguyên tắc tương tự cũng được áp dụng cho các cá nhân là đại diện pháp lý của một pháp nhân là một bên trong vụ tố tụng trọng tài giống như các thành viên trong ban giám đốc hay những người có lợi ích kinh tế đáng kể trong vụ việc đó. Vì tầm quan trọng của nguyên tắc này, trường hợp không khước từ được đưa ra trong Tiêu chuẩn Chung và các ví dụ cũng được nêu rõ trong Danh sách Đỏ không thể khước từ.

Các tiêu chuẩn chung đã sử dụng từ “nhận dạng” (identity) và “đại diện pháp lý” (legal representatives). Với những ý kiến nhận xét nhận được, Nhóm Làm việc đã xem xét liệu những cụm từ này có nên được mở rộng nghĩa hay có nên được định nghĩa lại nhưng Nhóm vẫn chưa có quyết định về vấn đề này. Nhóm nhận ra rằng có những trường hợp mà một nhân viên của một bên hay một công chức nhà nước có thể ở trong một vị trí tương tự nếu không nói là vị trí giống hệt với vị trí của một đại diện pháp lý chính thức. Nhóm làm việc đã quyết định chỉ cần nói lại nguyên tắc đó.

(3)         Sự tiết lộ thông tin của trọng tài viên

(a)          Nếu có các sự kiện hay tình huống mà trong mắt của các bên gây ra những nghi ngờ về tính vô tư độc lập của tọng tài thì trọng tài phải công bố các sự kiện, tình huống đó cho các bên, tổ chức trọng tài hay những người có trách nhiệm khác (nếu có và nếu quy tắc của các tổ chức trọng tài áp dụng yêu cầu) và với cả các đồng trọng tài viên, nếu có trước khi chấp nhận sự chỉ định hoặc ngay sau khi phát hiện ra điều đó.

(b)         Theo Tiêu chuẩn Chung 1 và 2(a), một trọng tài viên đã công bố thông tin coi mình là vô tư và độc lập với các bên bất chấp những điều chưa được công bố và vì vậy có khả năng hoàn thành nhiệm vụ với tư cách là một trọng tài viên. Tuy nhiên, người này vẫn có thể từ chối sự bổ nhiệm hay chỉ định ngay từ đẫu hoặc xin từ chức.

(c)          Bất cứ nghi ngờ nào về việc liệu một trọng tài viên có nên công bố thông tin nhất định hay không sẽ được giải quyết…

(d)         Khi xem xét liệu có nên tiết lộ một số thông tin hay không, trọng tài không cần quan tâm đến vấn đề liệu quá trình tố tụng trọng tài đang ở giai đoạn đầu hay giai đoạn sau.

Giải thích Tiêu chuẩn Chung 3:

(a)          Tiêu chuẩn Chung 2(b) ở trên đặt ra một bài kiểm tra khách quan về sự phù hợp của một trọng tài viên. Tuy nhiên vì phải quan tâm đến nhiều vấn đề khác nhau đến việc công bố thông tin nên các tiêu chuẩn hợp lý về công bố thông tin có thể khác. Một bài kiểm tra đơn thuần về việc công bố thông tin có trong phần lớn các án lệ đã được phân tích và trong cả luật mẫu UNICITRAL. Tuy nhiên, Nhóm Làm việc cũng nhận ra rằng các bên sẽ có lợi ích khi được công báo đầy đủ về bất kỳ trường hợp nào có thể liên quan đến trường hợp của họ. Vì quan điểm mạnh mẽ của rất nhiều tổ chức trọng tài (như được phản ánh trong quy tắc của họ và như nói với Nhóm Làm việc) rằng bài kiểm tra về công bố thông tin nên phản ánh thực trạng của các bên, nên Nhóm LÀm việc đã chấp nhận về mặt nguyên tắc cách tiếp cận mang tính chủ quan về việc công bố thông tin sau rất nhiều bàn luận. Nhóm Làm việc cũng đã thay đổi ngôn ngữ trong Điều 7(2), Quy tắc ICC về tiêu chuẩn này.

Tương tự như vậy, Nhóm Làm việc nhấn mạnh rằng hai bài kiểm tra (bài kiểm tra khách quan để kiểm tra tính phù hợp của trọng tài và bài kiểm tra chủ quan danh cho sự công bố thông tin) là khác nhau và sự công bố thông tin không tự động dẫn đến sự không phù hợp của trọng tài như được thể hiện trong Tiêu chuẩn Chung 3(b).

Khi quyết định thông tin nào sẽ được công bố, trọng tài viên nên xem xét tất cả các vấn đề liên quan đến mình bao gồm cả văn hóa và tập quán của nước mà các bên cư trú.

(b)         công bố thông tin không phải là sự thừa nhận xung đột lợ ích. Một trọng tài đã công bố thông tin có thể tự coi mình là vô tư và độc lập với các bên mặc dù một số thông tin chưa được công bố, nếu không người này có thể từ chối sự bổ  nhiệm hoặc là từ chức. Một trọng tài đã công bố thông tin vì vậy cảm thấy mình có đủ khả năng để hoàn thành nhiệm vụ của mình. Đó là mục đích của việc công bố thông tin khi cho phép các bên tự quyết định xem họ có đồng ý với những đánh giá của trọng tài hay không và nếu họ muốn họ có thể tìm hiểu thêm. Nhóm Làm việc chỉ hy vọng rằng sự công bố Tiêu chuẩn Chung này sẽ giảm thiểu những sự hiểu lầm rằng sự công bố là sự nghi ngờ đủ để loại bổ một trọng tài. Thay vào đó, bất cứ sự khước từ nào chỉ thành công nếu vượt qua được bài kiểm tra khách quan nói trên.

(c)          Những sự công bố thông tin không cần thiết đôi khi lại làm cho các bên có cách hiểu không đúng rằng các thông tin được công bố có ảnh hưởng đến sự vô tư và độc lập của trọng tài. Công bố nhiều thông tin quá sẽ làm giảm sự tự tin của các bên trong quá trình tố tụng. Tuy nhiên, sau khi bàn bạc, Nhóm Làm việc cho rằng việc quy định rõ ràng trong Tiêu chuẩn Chung là rất quan trọng trong trường hợp có nghi ngờ thì trọng tài phải công bố thông tin. Nếu trọng tài viên cảm thấy mình nên công bố thông tin nhưng quy tắ nghề nghiệp và các quy tắc thực tế khác không cho phép thì trọng tài không nên chấp nhận sự bổ nhiệm làm trọng tài hoặc là xin từ chức.

(d)        Một trọng tài có thể hỗ trợ các bên trong việc giải quyết tranh chấp ở bất cứ giai đoạn nào của quá trình tố tụng trọng tài. Tuy nhiên, trước khi làm vậy, trọng tài viên phải nhận được một thỏa thuận rõ ràng của các bên cho phép hành động như vậy sẽ không làm trọng tài mất tư cách tiếp tục vai trò trọng tài của mình. Thỏa thuận đó sẽ được coi là một khước từ hiểu quả xung đột lợi ích tiềm năng có thể phát sinh từ việc trọng tài tham gia vào quá trình tố tụng hoặc từ những thông tin mà trọng tài biết được trong quá trình tiến hành vụ hiện. Nếu như sự hỗ trợ của trọng tài không dẫn đến vụ kiện cuối cùng đã được giải quyết thì các bên vẫn bị ràng buộc bởi sự khước từ. Tuy nhiên, theo Tiêu cuẩn Xanh 2(a) và mặc dù thỏa thuận đó, trọng tài viên sẽ vẫn phải từ chức nếu trọng tài có những nghi ngờ về khả năng có thể tiếp tục sự vô tư và độc lập trong quá trình tố tụng tiếp theo.

Giải thích tiêu chuẩn 4:

(a)          Nhóm làm việc để xuất một yêu cầu về sự phản đối rõ ràng của các bên trong một giới hạn nhất định. Theo quan điểm của Nhóm làm việc, giwois hạn thời gian này nên áp dụng cho bên nào muốn từ chối tham gia tố tụng trọng tài.

(b)         Tiêu chuẩn chung này ra đời để Tiêu chuẩn chung 4(a) nhất quán với các quy định không thể khước từ trong Tiêu chuẩn chung 2(d). Ví dụ về các trường hợp đó được miêu tả trong Danh sác Đỏ không thể khước từ.

(c)          Trong một xung đột lợi ích nghiêm trọng như được miêu tả bằng các ví dụ trong Danh sác Đỏ có thể khước từ, các bên có thể chỉ định người đó làm trọng tài. Ở đây cần phải cân bằng giữa quyền tự quyết của các bên và mong muốn có những trọng tài vô tư và độc lập. Nhóm làm việc tin rằng những người với những xung đột lợi ích thực sự vấn có thể làm trọng tài chỉ khi nào các bên đã được thông báo đầy đủ và đã bỏ qua một cách rõ ràng những xung đột này.

(d)         Việc Hội đồng trọng tài hỗ trợ các bên trong việc giải quyết tranh chấp suốt quá trình tố tụng trọng tài đã được thực hiện rất tốt trong hầu hết các vụ nhưng trong một số trường hợp lại không phải như vậy. Sự thỏa thuận đã được thông báo của các bên về một quá trình như vậy trước khi bắt đầu vỵ kiện sẽ được coi là một sự bỏ quá có hiệu lực những xung đột lợi ích tiềm năng. Suewj đồng ý này phải được thể hiện rõ ràng và đầy đủ không giống với một thỏa thuận bằng văn bản mà trong một số vụ còn không cần cả chứ ký. Trong thực tế, yêu cầu về việc bỏ quá những xung đột lợi ích phải được thể hiện rõ ràng cho phép sự chấp thuận được làm trong các biên bản của phiên tòa giải quyết tranh chấp. Thêm vào đó, để tránh việc các bên sử dụng trọng tài với vai trò là người hòa giải như một phương tiện để loại bỏ trọng tài, Tiêu chuẩn chung quy định rõ ràng việc bỏ qua những xung đột lợi ích sẽ vẫn có hiệu lực nếu việc hòa giải không thành công. Vì vậy, các bên thường coi đó là rủi ro của việc trọng tài có thể biết một số thông tin trong quá trình giải quyết tránh chấp. Khi đưa ra chấp nhận, các bên phải biết được kết quả của sự trợ giúp của trọng tài trong quá trình giải quyết tranh chấp và phải đồng ý về quy định này khi thích hợp.

(5) Phạm vi

Hướng dẫn này áp dụng giống nhau cho chủ tịch hội đồng trọng tài, trọng tài viên duy nhất và các trọng tài viên do các bên chỉ định. Hướng dẫn này không áp dụng cho các trọng tài không trung lập – những nguwoif không có nghĩa vụ phải độc lập và vô tư mà một số quy tắc tố tụng trọng tài và luật quốc gia vẫn cho phép.

Giải thích Tiêu chuẩn chung 5:

Vì mỗi thành viên trong Hội đồng trọng tài đều phải có nghĩa vụ vô tư và độc lập nên các Tiêu chuẩn chung không phân biệt giữa trọng tài duy nhất, trọng tà do các bên chỉ định hay chủ tịch hội đồng trọng tài. Liên quan đến thư ký của hội đồng trọng tài, Nhóm làm việc có quan điểm rằng trách nhiệm của trọng tài phải đảm bảo rằng thư ký luôn vô tư và độc lập.

Một số quy tắc tố tụng trọng tài và các luật trong nước cho phép trọng tài do các bên chỉ định có thể không trung lập. Hướng dẫn này không áp dụng cho trọng tài không trung lập vì mục đích của Hướng dẫn là để bảo vệ sự vô tư và độc lập.

(6) Các mối quan hệ.

(a)          Khi xem xét sự liên quan của các sự kiện và trường hợp để quyết định xem có tồn tại xung đột lợi ích hay không hay liệu có cần phải có một vụ điều trần hay không thì các hoạt động của một công ty luật của trọng tài nếu có sẽ được xem xét một cách thận trọng trong từng vụ. Vì vậy, việc các hoạt động của một công ty của trọng tài liên quan đến một trong các bên sẽ không tự động tạo thành nguồn xung đột hay là lý do để tổ chức các phiên điều trần.

(b)         Tương tự như vậy, nếu một trong các bên là một pháp nhân mà là một thành viên trong một nhóm có liên quan đến công ty của trọng tài thì nhwungx thông tin sự kiện cũng sẽ phải được xem xét kỹ lưỡng trong từng vụ cụ thể. Vì thế, nếu chỉ có thông tin này sẽ không tự động cấu thành nguồn xung đột hay là lý do để tổ chức các phiên điều trần.

(c)          Nếu một trong các bên là một pháp nhân thì người quản lý, giám đốc và các thành viên trong ban quản lý của pháp nhân đó và bất kỳ người nào có khả năng kiểm soát tương tự đối với pháp nhân này đều được coi tương đương với pháp nhân.

Giải thích tiêu chuẩn chung 6:

(a)          Quy mô ngày càng tăng của các công ty luật cũng sẽ được tính đến như một phần của thực tế hiện nay trong tố tụng trọng tài quốc tế. Cần phải cân bằng giữa lợi ích của các bên sử dụng trọng tài do học lựa chọn với vai trò quan trọng của việc đảm bảo sự tin tưởng về sự vô tư và độc lập của các vụ tố tụng trọng tài quốc tế. Theo quan điểm của Nhóm làm việc, về nguyên tắc trọng tài phải được xem giống như công ty luật của trọng tài nhưng các hoạt động của công ty trọng tài không tự động hình thành nên xung đột lợi ích. Sự liên quan của các hoạt động đó như về bản chất, thời gian hay phạm vi của công việc của công ty luật sẽ được xem xét một cách hợp lý trong từng vụ cụ thể. Nhóm làm việc sử dụng cụm từ “liên quan” (involvement) chứ không phải là “làm việc cho” (acting for) vì mối quan hệ liên quan của một công ty luật có thể bao gồm cả các hoạt động chứ không chỉ là đại diện về vấn đề pháp lý.

(b)         Khi một bên trong vụ kiện tố tụng trọng tài là thành viên của một tập đoàn thì có thể phát sinh những vấn đề đặc biệt liên quan đến xung đột lợi ích. Như đã nói ở trong chương trước, Nhóm làm việc tin rằng do sự sắp xếp cơ cấu doanh nghiệp khác nhau khá lớn nên một quy tắc tự động là không thích hợp. Thay vào đó, những trường hợp cụ thể của một công ty khác trong cùng một tập đoàn phải được xem xét một cách hợp lý trong từng vụ kiện.

(c)                Một bên trong một vụ kiện bằng trọng tài quốc tế thường là pháp nhân. Vì thế, tiêu chuẩn chung này phân loại cá nhân nào sẽ được xem xét thuộc bên đó.

(7)Nhiệm vụ của trọng tài và các bên.

(a)                Một bên phải thông báo cho trọng tài viên, Hội đồng trọng tài và các bên khác và tổ chức trọng tài hoặc người  có trách nhiệm (nếu có) về bất kỳ mối quan hệ trực tiếp hay gián tiếp nào giữa bên này (hoặc một công ty khác trong cùng tập đoàn) với trọng tài viên. Bên đó sẽ phải làm theo ý kiến của mình trước khi bắt đầu vụ kiện tố tụng trọng tài hoặc ngay khi bên này biết về mối quan hệ đó.

(b)               Để phù hợp với Tiêu chuẩn chung 7(a), một bên phải cung cấp bất kỳ thông tin nào mà mình có và phải thực hiện một nghiên cứu về các thông tin đó.

(c)                Một trọng tài phải có trách nhiệm có những yêu cầu hợp lý để điều tra bất kỳ xing đột lợi ích tiềm năng nào cũng như bất kỳ thông tin nào có thể khiến sự vô tư và độc lập của trọng tài nằm trong tình trạng bị nghi vấn. Không công bố xung đột tiềm năng không phải do thiếu thông tin nếu như trọng tài không có sự cố gắng hợp lý để điều tra.

Giải thích tiêu chuẩn chung 7:

Để giảm thiểu rủi ro lạm dụng việc cố tình phản đối lại sự vô từ và độc lập của trọng tài thì các bên cần phải công bố bất cứ mối quan hệ liên quan nào với trọng tài viên. Thêm vào đó, bất cứ bên nào hoặc những người có thể là một bên trong vụ kiện ngay từ đầu đã bị yêu cầu phải có sự cố gắng hợp lý để xác minh và công bố những thông tin công khai có sẵn mà áp dụng theo tiêu chuẩn chung có thể ảnh hưởng đến sự vô tư và độc lập của trọng tài. Nghĩa vụ vủa trọng tài hoặc những người được coi là trọng tài là phải đưa ra những yêu cầu tương tự và công bố bất cứ thông tin nào có ảnh hưởng đến sự độc lập và vô tư của trọng tài.

PHẦN II: VIỆC ÁP DỤNG THỰC TẾ

CÁC TIÊU CHUẨN CHUNG.

  1. Nhóm làm việc tin rằng nếu Hướng dẫn có một ảnh hưởng thực tế quan trọng thì Hướng dẫn cần phản anh được các tình huống có thể xảy ra trong thực tiến tố tụng trọng tài hiện nay. Hước dẫn cũng cung cấp những hội hướng dẫn cụ thể cho các trọng tài, các bên, các tổ chức trọng tài và các tòa án về các tình huống nào có xung đột lợi ích hay nên phải công bố.

Với mục đích này, các thành viên của Nhóm làm việc đã phân tích luật tương ứng và phân loại các trường hợp có thể xảy ra trong Danh sách sau đây. Danh sách này rõ ràng là không thể có hết các tình huống nhưng nó cung cấp hướng dẫn trong rất nhiều trường hợp và Nhóm làm việc đã cố gắng để làm những hướng dẫn này trở nên dễ hiểu nhất có thể. Trong hầu hết các trường hợp, Tiêu chuẩn chung đều có thể áo dụng được.

  1. Danh sách đó bao gồm 2 phần: “Danh sách Đỏ không thể khước từ” (xem Tiêu chuẩn Chung 2(c) và 4(b)) và “Danh sách đỏ có thể khước từ” (xem Tiêu chuẩn Chung 4(c)). Các danh sách này là sự liệt kê không đầy đủ tất cả các tình huống cụ thể mà tùy vào từng trường hợp nhất định có thể làm nảy sinh những nghi ngờ về tính vô tư và độc lập của trọng tài.Ví dụ, theo quan điểm của một người thứ ba có kiến thức liên quan, trong những trường hợp này có sự xung đột lợi ích khách quan (xem tiêu chuẩn Chung2(b)). Danh sách đỏ không thể khước từ bao gồm cả những tình huống bắt nguồn từ một nguyên tắc quan trọng nhất là không ai có thể be his or her own judge. Vì vậy, việc công bố tình huống đó không thể giải quyết được xung đột đó. Danh sách có thể khước từ lại bao gồm những tình huống nghiêm túc nhưng không quá nghiêm trọng. Vì sự nghiêm tức đó nên không giống các trường hợp khác được miêu tả trong Danh sác Da cam, những tình huống này được coi là có thể khước từ khi và chỉ khi các bên mặc dù có sự xung đột lợi ích nhưng vẫn thể hiện sự sẵn sàng chấp nhận người đó là trọng tài như quy định trong Tiêu chuẩn Chung 4(c).

  1. Danh sách Da cam lại là một tập hợp không đầy đủ các tình huống cụ thể mà phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể theo quan điểm của các bên có thể làm này sinh những nghi ngờ về sự vô tư và độc lập của trọng tài. Danh sách Da cam vì vậy thể hiện các trường hợp mà sẽ rơi vào Tiêu chuẩn Chung 3(a), theo đó trọng tài phải có nghĩa vụ công bố các tình huống đó. Trong tất cả các trường hợp này các bên được coi là đã chấp nhận một trọng tài nếu sau khi công bố không có một sự phản đối đúng lúc nào được đưa ra (Tiêu chuẩn Chung 4(a).

  1. Như đã nói ở trên, nên chú ý rằng sự công bố thông tin đó sẽ không tự động gây ra sự loại bỏ trọng tài, không có giả thuyết nào liên quan đến việc loại bỏ trọng tài phát sinh từ việc công bố. Mục tiêu của việc công bố thông tin là để thông báo cho các bên về một tình huống mà họ muốn biết thêm thông tin để quyết định một cách khách quan xem liệu có phát sinh sự nghi ngờ về tính vô tư và độc lập của trọng tài theo quan điểm của một người thứ ba có hiểu biết về các vấn đề liên quan. Nếu kết luận là không có sự nghi ngờ gì, thì trọng tài vẫn có thể tiếp tục vai trò của mình. Người đó vẫn có thể làm trọng tài nếu không có sự phản đối đúng lúc nào được dưa ra bởi các bên hoặc trong các trường hợp trong Danh sách Đỏ có thể từ chối không có sự chấp nhận cụ thể nào của các bên phù hợp với Tiêu chuẩn Chung 4(c). Tất nhiên nếu một bên phản đối việc chỉ định một trọng tài, nguwoif đó vẫn có thể làm trọng tài nếu người có thẩm quyền về sự phản đối quyết định rằng phản đối đó không đáp ứng được bài kiểm tra khách quan về sự phù hợp của trọng tài.

  1. Thêm vào đó, một sự phản đối sau này dựa vào việc trọng tài không công bố các thông tin sẽ không tự động gây ra sự không bổ nhiệm, sự bãi bỏ tư cách trọng tài sau này hay là sự phản đối thành công đối với bất kỳ phán quyết nào. Theo quan điểm của Nhóm làm việc, việc không công bố khoont ểh làm một trọng tài trở thành thiếu khách quan hay thiếu tính độc lập, chỉ có những thông tin mà người này không công bố mới có thể làm được như vậy.
  2. Danh sách Xanh gồm những tình huống cụ thể mà không có sự xuất hiện và không có những xung đột thực sự theo quan điểm khách qua. Vì vậy, trọng tài không phải công bố những tính huống nằm trong danh sách Xanh. Theo quan điểm của Nhóm làm việc như đã nói trong phần Giải thích Tiêu chuẩn chung 3(a), nên có một giới hạn đối với việc công bố thông tin dựa trên tính hợp lý trong một số trường hợp, một bài kiêm tra tính khách quan sẽ tốt hơn một bài kiêm tra mang tính chủ quan đơn thuần theo quan điểm của các bên.

  1. Các tình huống diễn ra ngoài giới hạn thời gian quy định trong Danh sách Cam sẽ được coi là thuộc danh sách Xanh mặc dầu không có quy định cụ thể về điều này. Tuy nhiên, một trọng tài có thể muốn công bố thông tin nếu theo tiêu chuẩn Chung người này cho là thích hợp. Trong khi đã tranh cãi rất nhiều về thời gian giới hạn quy định trong các Danh sách, Nhóm làm việc đã kết luận rằng những giới hạn đó là thích hợp và đã cung cấp những hướng dẫn mà hiện nay không còn nữa. Ví dụ, thời hạn 3 năm trong Danh sách Cam 3.1 có thể quá dài trong một số trường hợp nhất định nhưn lại trở nên quá ngắn trong những trường hợp khác, tuy nhiên Nhóm làm việc vẫn tin rằng thời hạn trên là tiêu chí thích hợp áp dụng cho bất kỳ trường hợp nào.

  1. Ranh giới giữa các tình huống thường là rất mong manh. Thường có tranh cãi về một trường hợp nào đó thuộc danh sách này hay danh sách kia. Các danh sách cũng gồm có những tiêu chí mở như “quan trọng” các tình huống khác nhau. Vì vậy, Nhóm làm việc đã liên tục thảo luận về cả 2 vấn đề này cũng với những ý kiến nhận xét nhận được. Nhóm tin rằng các quyết định trong danh sách đều phản ánh những nguyên tắc quốc tế một cách mở nhất có thể và việc quy định cụ thể hơn các tiêu chuẩn mà đáng nghẽ ra phải được giải thích cùng với các thông tin trong mỗi trường hợp lại có tác dụng ngược lại.

  1. Đã có rất nhiều tranh cãi về việc liệu có nên có danh sách Xanh và liên quan đến danh sách Đỏ, các trường hợp trong Danh sách Đỏ không thể khước từ có nên vẫn có thể khước từ theo quyền tự quyết của các bên. Liên quan đến câu hỏi đầu tiên, Nhóm làm việc vẫn bảo vệ quyết định của mình rằng một bài kiểm tra mang tính chủ quan về việc công bố thông tin sẽ không phải là một tiêu chí hoàn hảo nhưng nên thêm vào một số giải pháp mang tính khách quan. Về câu hỏi thứ hai, kết luận Nhóm làm việc là quyền tự quyết của các bên về vấn đề này cũng có giới hạn.

  1. 1.            Danh sách Đỏ không thể khước từ.

1.1.      Có sự giống nhau giữa một bên và trọng tài hoặc trọng tài là đại diện pháp lý của một tổ chức là một bên trong vụ kiện.

1.2.      Trọng tài là quản lý, giám đốc hay thành viên của ban quản lý hoặc có những ảnh hưởng kiểm soát tương tự đối với một trong các bên.

1.3.      Trọng tài có lợi ích tài chính đáng kể đối với một trong các bên hoặc trong kết quả của vụ kiện.

1.4.      Trọng tài thường xuyên tư vấn bên chỉ định hoặc một chi nhánh của bên chỉ định và trọng tài hoặc công ty của trọng tài có thu nhập lợi ích đáng kể từ việc tư vấn này.

  1. 2.                  Danh sách Đỏ có thể khước từ.

2.1.            Mối quan hệ của trọng tài đối với tranh chấp.

 2.1.1. Trọng tài đưa ra tư vấn pháp lý hoặc đưa ra ý kiến chuyên môn về tranh chấp cho một bên hoặc công ty của một trong các bên.

 2.1.1. Trọng tài có sự liên quan trước kia với vụ kiện.

2.2.            Lợi ích trực tiếp và gián tiếp của trọng tài trong tranh chấp.

2.2.1.      Trọng tài có cổ phiếu kể trực kiếp hoặc gián tiếp trong một trong các bên hoặc trong công ty con của một bên.

2.2.2.      Thành viên trong gia đình thân thiết của một trọng tài có lợi ích tài chính đáng kể trong kết quả của vụ kiện.

2.2.3.      Trọng tài hoặc thành viên gia đình thân thiết3 của trọng tài có mối quan hệ thân thiết với một bên thứ ba có trách nhiệm trông cậy vào phần của bên không thành công trong tranh chấp.

2.3.            Mối quan hệ của trọng tài với các bên hoặc luật sư.

2.3.1.      Trọng tài hiện đang tư vấn cho một bên hoặc công ty của một bên.

2.3.2.      Trọng tài hiện đại diện cho luật sư hoặc một công ty luật hoặc động với tư cách là luật sư cho một trong các bên.

2.3.3.      Trọng tài là một luật sư trong cùng một công ty luật với luật sư của một trong các bên.

2.3.4.      Trọng tài là quản lý, giám đốc hoặc thành viên ban quản lý hoặc có ảnh hưởng kiểm soát tương tự trong công ty con4 của một bên nếu công ty con đó trự tiếp liên quan đến các vấn đề tranh chấp trong vụ kiện.

2.3.5.      Công ty luật của trọng tài có trước kia đã có liên quan nhưng đã kết thúc với vụ kiện mà trọng tài không có liên quan gì.

2.3.6.      Công ty luật của trọng tài hiện có mối quan hệ thương mại quan trọng với một bên hoặc công ty con của một bên.

2.3.7.      Trọng tài thường xuyên tư vấn bên chỉ định hoặc công ty con của bên chỉ định nhưng cả trọng tài và công ty của trọng tài không có lợi nhuận tài chính đáng kể từ công việc tư vấn này.

2.3.8.      Trọng tài có mối quan hệ gia đình thân thiết với một bên hoặc với quản lý, giám đốc hay thành viên của ban quản lý hay bất kỳ người nào có khả năng kiểm soát tương tự ở một bên hoặc tại công ty con của một bên hoặc với một luật sư đại diện cho một bên.

2.3.9.      Một thành viên gia đình thân thiết của trọng tài có lợi ích tài chính lớn ở một bên hoặc công ty con của một bên.

  1. 3.                  Danh sách Cam.

3.1.            Các dịch vụ trước kia đối với một bên hoặc những liên quan khác trong vụ kiện.

3.1.1.      Trọng tài trong khoảng 3 năm trở lại đã là luật sư cho một bên hoặc công ty con của một bên hoặc trước kia đã tư vấn cho hoặc được một bên hoặc công ty con của bên chỉ định tư vấn trong một vấn đề không liên quan nhưng trọng tài và bên đó hay công ty con của bên đó hiện không có mối quan hệ nào.

3.1.2.      Trọng tài trong khoảng 3 năm trở lại đã từng là luật sư chống lại một bên hoặc công ty của một bên trong một vấn đề không liên quan.

3.1.3.      Trọng tài trong khoảng 3 năm đã được chỉ định là trọng tài trong 2 hoặc nhiều trường hợp bởi một bên hoặc công ty con của bên đó5.

3.1.4.      Công ty luật của trọng tài trong khoảng 3 năm trở lại đã cung cấp dịch vụ cho một bên hoặc công ty con của một bên về một vấn đề không liên quan nhưng không có sự tham gia cả trọng tài.

3.1.5.      Trọng tài hiện nay hoặc trong khoảng 3 năm trở lại là trọng tài trong một vụ kiện khác về một vấn đề liên quan đến một bên hoặc công ty con của một bên.

3.2.            Cung cấp dịch vụ cho một trong các bên.

3.2.1.      Công ty luật của trọng tài hiện đang cung cấp dịch vụ cho một trong các bên hoặc cho công ty con của một bên mà không có mối quan hệ thương mại lớn nào và không có sự tham gia của trọng tài.

3.2.2.      Một công ty luật chia sẻ doanh thu hoặc phí với chứng từ luật của trọng tài đang cung cấp dịch vụ cho một bên hoặc công ty con của một bên trước Hội đồng trọng tài.

3.2.3.      Trọng tài hoặc công ty của trọng tài đại diện cho một bên hoặc công ty con của một bên trong vụ kiện một cách thường xuyên nhưng không liên quan trong tranh chấp hiện tại.

3.3.            Mối quan hệ giữa trọng tài và một trọng tài khác hay với luật sư.

3.3.1.      Một trọng tài và một trọng tài khác là luật sư trong cùng một công ty luật.

3.3.2.      Một trọng tài này và một trọng tài khác hoặc luật sư cho một bên đều là thành viên của một văn phòng luật sư6.

3.3.3.      Trọng tài trong khoảng 3 năm trở lại là đối tác của một trọng tài khác hoặc bất kỳ một luật sư nào trong vụ kiện.

3.3.4.      Một luật sư trong công ty luật của trọng tài là một trọng tài trong một tranh chấp khác liên quan đến cùng một hoặc các bên hoặc một công ty con của một bên.

3.3.5.      Một thành viên gia đình thân thiết của trọng tài là đối tác hoặc nhân viên của công ty luật đại diện cho một bên, nhưng thành viên này không tham gia vào tranh chấp.

3.3.6.      Có mối quan hệ cá nhân thân thiết giữa trọng tài và luật sư của một bên như đã nói là trọng tài và luật sư thường dành khá nhiều thời gian với nhau mà không có liên quan đến công viêc chuyên môn hay các hoạt động của các hiệp hội nghề nghiệp hay các tổ chức xã hội.

3.3.7.      Trọng tài trong vòng 3 năm trờ lại nhận hơn 3 sự chỉ định của chùng một luật sư hay một công ty luật.

3.4.            Mối quan hệ giữa trọng tài và một bên và những người khác liên quan trong vụ kiện.

3.4.1.      Công ty luật của trọng tài đang cung cấp những dịch vụ chống lại một bên hoặc công ty con của một bên.

3.4.2.      Trọng tài trong vòng 3 năm trở lại đã cộng tác với một bên hoặc công ty con của một bên với tư cách là một nhân viên cũ hoặc một đối tác.

3.4.3.      Có một mối quan hệ thân thiết giữa trọng tài với một quản lý, một giám đốc, một thành viên ban quản lý hay bất kỳ người nào có khả năng kiểm soát tương tự ở một bên hoặc công ty con của một bên hoặc là nhân chứng, giám định viên. Trọng tài và các giám đốc, quản lý những người khác, nhân chứng và giám định viên thường xuyên dành nhiều thời gian với nhau mà không liên quan đến các cam kết công việc chuyên môn hay những hoạt động của các hiệp hồi nghề nghiệp hay các tổ chức xã hội.

3.4.4.      Nếu trọng tài đã từng là một thẩm phán thì trong vòng 3 năm trở lại người này đã tham gia một vụ kiện liên quan đến một trong các bên.

3.5.            Các trường hợp khác.

3.5.1.      Trọng tài có cổ phần trực tiếp hoặc gián tiếp mà vì lý do số lượng hay sự giảm giá số cổ phiếu này trở thành một phần đáng kể ở một bên hoặc công ty con của một bên được niêm yết công khai.

3.5.2.      Trọng tài công khai ủng hộ một vị trí cụ thể liên quan đến vụ kiện đang được xywr bằng phương pháp tố tụng trọng tài trong một ấn phẩm hoặc một bài phát biểu đã được xuất bản hoặc bằng chững cách khác.

3.5.3.      Trọng tài giữ một vị trí trong một tổ chức trọng tài với quyền chỉ định trong tranh chấp.

3.5.4.      Trọng tài là quản lý, giám đốc hay thành viên của ban quản lý hoặc có quyền kiểm soát tương tự trong một coocn tyw con của một bên trong đó công ty con này không trực tiếp liên quan đến các vấn đề tranh chấp trong vụ kiện tố tụng trọng tài.

  1. 4.                  Danh sách Xanh.

4.1.            Các quan điểm pháp lý đã được thể thiện trước đây.

4.1.1.      Trọng tài trước đây đã xuất bản quan điểm chung (ví dụ như trong một bài báo về luật hay một bài thuyết trình trươc công chúng) liên quan đến một vấn đề cũng phát sinh trong vụ kiện tố tụng trọng tài (những quan điểm này không tập trung vào vụ kiện đang được giải quyết bằng phương pháp tố tụng trọng tài).

4.2.            Các dịch vụ trước kia chống lại một bên.

4.2.1.      Công ty luật của trọng tài từng hoạt động chống lại một bên hoặc công ty con của một bên trong một vấn đề không liên quan và không có sự tham gia của trọng tài.

4.3.            Các dịch vụ hiện nay cho một bên.

4.3.1.      Một công ty trong một hiệp hội hoặc một liên minh với công ty luật của trọng tài nhưng không chia sẻ phí hoặc các khoản doanh thu khác với công ty luật của trọng tài hiện đang cung cấp dịch vụ cho một bên hoặc công ty con của một bên trong các vấn đề không liên quan.

4.4.            Mối liên hệ với một trọng tài khác hoặc với luật sư của một bên.

4.4.1.      Trọng tài có mối quan hệ với một trọng tài khác hoặc với luật sư của một bên do đều là thành viên trong một hiệp hội nghề nghiệp hay một tổ chức xã hội.

4.4.2.      Trọng tài và luật sư của một bên hay một trọng tài khác đã từng cùng là trọng tài hoặc là đồng luật sư.

4.5.            Mối quan hệ giữa trọng tài và một trong các bên.

4.5.1.      Trọng tài có mối liên hệ ban đầu với bên chỉ định hoặc một công ty con của bên chỉ định (hay các luật sư danh tiếng) trước khi chỉ định, nếu sự liên lạc này bị giới hạn đến khả năng sẵn sàng của trọng tài và sự phù hợp của trọng tài để có thể làm tốt vai trò này hoặc giới hạn đến những cái tên của một số ứng viên cho vụ trí chủ tịch hội đồng trọng tài và không đề cập đến nội dung về mặt thủ tục trong tranh chấp.

4.5.2.      Trọng tài có cổ phần lớn trong một bên hay công ty con của một bên được niêm yết công khai.

4.5.3.      Trọng tài và quản lý, giám đốc hay thành viên ban quản lý hay bất cứ người nào có khả năng kiểm soát tương tự trong một bên hay công ty con của một bên đã làm việc cùng nhau như là những đồng giám định viên hay làm các công việc chuyên môn khác bao gồm cả việc làm trọng tài trong cùng một vụ kiện.

Một biểu đồ được đính kèm Hướng dẫn này để người đọc dễ dàng tham khảo việc áp dụng danh sách. Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh rằng dây chỉ là sự minh họa dưới dạng biểu đồ về một thực tế vô cùng phức tạp. Các trường hợp cụ thể về các vụ kiện luôn rõ ràng hơn.

Công ty luật Dragon

Xếp hạng
5/5

Chia sẻ

Share on facebook
Share on twitter
Share on linkedin
Share on pinterest
Share on tumblr

Tư vấn trực tuyến

Bài viết liên quan

Thủ tục khiếu nại tố cáo

Thủ tục khiếu nại tố cáo theo quy định của pháp luật Việt Nam bao gồm các bước sau: Giải quyết khiếu nại lần đầu:

Giải đáp thắc mắc

Làm gì khi bị lừa đảo qua mạng

Luật sư tư vấn khi bị lừa đảo quan mạng, bạn cần bình tĩnh và thực hiện các bước sau: Dừng ngay việc gửi tiền hoặc thực hiện bất kỳ hành động nào khác theo yêu cầu của kẻ lừa đảo. Chặn tất cả các liên lạc từ kẻ lừa

Xem chi tiết »

ĐOÀN LUẬT SƯ HÀ NỘI

CÔNG TY LUẬT DRAGON

Giám đốc – Thạc sĩ Luật sư:  Nguyễn Minh Long

Công ty luật chuyên:

Hình sự – Thu hồi nợ – Doanh nghiệp – Đất Đai – Trọng tài thương mại – Hôn nhân và Gia đình.

  • Văn phòng luật sư quận Cầu Giấy:  Phòng 6 tầng 14 tòa nhà VIMECO đường Phạm Hùng, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
  • Văn phòng luật sư quận Long Biên: Số 24 ngõ 29 Phố Trạm, Phường Long Biên, Quận Long Biên, Hà Nội
  • Điện thoại: 1900 599 979 / 098.301.9109Email: dragonlawfirm@gmail.com

Hệ thống Website:

#luatsubaochua, #luatsutranhtung, #luatsuhinhsu, #luatsugioibaochua, #luatsubaochuahanoi, #luatsubaochuahaiphong

Điều luật tham khảo

Văn bản luật

Thủ tục liên quan đến thuê luật sư

Chi phí thuê luật sư bào chữa vụ án hình sự

Luật hình sự là quan hệ xã hội phát sinh giữa Nhà nước và người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội khi các chủ thể này thực hiện tội phạm. Theo quy định tại Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, những người có quyền nhờ luật sư bào chữa bao gồm:

  • Người bị bắt.
  • Người bị tạm giữ.
  • Bị can.
  • Bị cáo.
  • Bị hại.
  • Nguyên đơn dân sự.
  • Bị đơn dân sự.
  • Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.

Ngoài những đối tượng trên, theo quy định tại Điều 27 Luật Hình sự năm 2012, người đại diện hoặc người thân thích của người bị buộc tội cũng có quyền được nhờ luật sư bào chữa cho người bị buộc tội.

Quá trình tố tụng bắt đầu từ giai đoạn điều tra – truy tố – xét xử – thi hành án. Bất kể một cá nhân, đại diện, tổ chức nào ngay khi nhận được giấy mời, giấy triệu tập của cơ quan điều tra hoặc tại bất kỳ thời điểm nào trong quá trình tố tụng nêu trên đều có quyền và cần thiết phải nhờ sự hỗ trợ của luật sư.

Tuy nhiên, vì quá trình tố tụng kéo dài đói hỏi người bảo vệ quyền lợi cho thân chủ phải là người đồng hành cùng thân chủ trong xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự. Do đó, thời điểm tốt nhất để có thể nhờ luật sư bào chữa là ngay khi nhận được giấy triệu tập từ cơ quan điều tra. Vì, khi đó, luật sư có thể can thiệp pháp lý và bảo vệ cho thân chủ ngay từ giai đoạn đầu tiên.

Luật sư hình sự sẽ giúp ích gì cho bạn?

Luật sư hình sự tham gia vào vụ án hình sự trong suốt quá trình tố tụng từ sơ thẩm đến phúc thẩm hoặc có thể trong giai đoạn tái phẩm hoặc giám đốc thẩm với vai trò là người được nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự ủy quyền tham gia vụ án hoặc là người bảo vệ quyền và lợi ích cho thân chủ.

Tham gia vào ngay từ giai đoạn xác minh ban đầu, khi có giấy triệu tập và trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, luật sư hình sự có những nhiệm vụ sau:

  • Nghiên cứu, xác minh, thu thập chứng cứ theo quy định pháp luật để bảo vệ thân chủ. Đây là một trong những quyền và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 73 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
  • Đóng vai trò là người bảo vệ cho thân chủ tại những phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Giúp phiên tòa có cái nhìn khách quan hơn về động cơ, hoàn cảnh của thân chủ.
  • Luật sư hình sự là người am hiểu pháp luật, vận dụng những kỹ năng của một người luật sư, linh hoạt, mềm dẻo trong quá trình làm việc với cơ quan điều tra, cơ quan tiến hành tố tụng, giúp bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho thân chủ của mình.
  • Luật sư hình sự sẽ là người tư vấn đưa ra những giải pháp tốt nhất, đảm bảo đúng quy định pháp luật cho thân chủ của mình.

Vì sao bị can/bi cáo nên nhờ/thuê luật sư hình sự ngay từ ban đầu?

  • Từ khi bị triệu tập, nghi vấn phạm tội: có thể thuê luật sư ngay từ đầu để bảo vệ quyền lợi, có thể bị hình sự hóa trong quan hệ hình sự trong quá trình điều tra xét xử.
  • Giai đoạn tạm giam điều tra: Luật sư tiếp xúc trực tiếp với bị can/thân chủ hỏi cung, đối chất, đề xuất, kiến nghị tới cơ quan tiến hành tố tụng, yêu cầu họ thực hiện đúng quy định pháp luật để bảo cho thân chủ.
  • Tham gia bảo vệ (bào chữa) cho thân chủ tại những phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Giúp phiên tòa có cái nhìn khách quan hơn về động cơ, hoàn cảnh của thân chủ.
  • Luật sư hình sự là người am hiểu pháp luật, vận dụng những kỹ năng của một người luật sư, linh hoạt, mềm dẻo trong quá trình làm việc với cơ quan điều tra, cơ quan tiến hành tố tụng, tranh tụng giúp bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho thân chủ của mình.
  • Luật sư hình sự sẽ là người tư vấn đưa ra những giải pháp tốt nhất, đảm bảo đúng quy định pháp luật cho thân chủ của mình.

Đối với người bị hại thì Luật sư hình sự sẽ giúp ích những gì?

  • Luật sư thu thập chứng cứ
  • Tư vấn pháp luật hình sự cho người bị hại hiểu được hành vi của bi can/bị cáo biết được tội danh mà cơ quan điều tra khởi tố với người phạm tội đã đúng hay chưa
  • Giúp cho người bị hại soạn thảo các đơn từ kiến nghị để việc khởi tố/truy tố đối với bị can gây ra thương tích, gây ra thiệt hại cho người bị hại là “đúng người đúng tội”
  • Vấn đề về bồi thường: Luật sư tư vấn soạn thảo tính toán mức bồi thường để đưa ra yêu cầu xém xét bồi thường.

Tiêu chí để lựa chọn dịch vụ luật sư hình sự là gì?

Thông thường, mọi người có xu hướng lựa chọn luật sư thông qua quen biết vì cho rằng luật sư thông qua quen biết sẽ có độ tín nhiệm cao hơn hoặc là và có thể “nhờ vả” được. vậy đây có phải là một tiêu chí để lựa chọn luật sư?

Theo quy định tại quy tắc số 5 Quyết định số 201/QĐ-HĐLSTQ của liên đoàn luật sư Việt Nam về quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam thì một trong những quy tắc hành nghề chính là bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng, đây là một trong những quy tắc mà bất kì luật sư nào cũng thuộc nằm lòng.

Hơn nữa, hiện nay cuộc cách mạng cải cách tư pháp đã loại bỏ rất nhiều tiêu cực trong hoạt động tố tụng, quá trình xét xử, theo thông tư liên tịch số 03/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP quá trình xét xử phải được ghi âm ghi hình đảm bảo sự minh bạch rõ ràng tránh những hoạt động, hành vi tiêu cực trong xét xử.

Bất kỳ luật sư nào cũng có nghĩa vụ bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích cho thân chủ của mình, và quy trình hoạt động tố tụng cũng đã được quy định chặt chẽ hơn, các hoạt động tiêu cực cũng từ đó bị triệt tiêu dần. Do đó, yếu tố người thân người quen không phải là một trong những yếu tố, tiêu chí để lựa chọn luật sư, mà tiêu chí để lựa chọn luật sư bao gồm những tiêu chí sau:

  • Luật sư có chuyên môn trong lĩnh vực hình sự, đây là một yếu tố quan trọng của một luật sư hình sự vì phải hiểu rõ lý luận pháp luật, cập nhật thường xuyên những thay đổi của pháp luật, am hiểu cơ chế hoạt động điều tra thì mới có thể bảo vệ tốt cho thân chủ của mình.
  • Luật sư có kinh nghiệm trong hoạt động tố tụng hình sự, trong thực tiễn và tham gia tố tụng trong nhiều vụ án vì càng tham gia nhiều vụ án thì càng tích lũy được nhiều bản lĩnh, kinh nghiệm thâm niên lâu có thể giải quyết được không chỉ những vấn đề pháp luật mà vấn đề quan hệ với các cơ quan tố tụng, cơ quan điều tra.
  • Thấu hiểu hoàn cảnh, động cơ, lý do, hoàn cảnh của thân chủ ví dụ như: do hoàn cảnh khó khăn, do nền tảng gia đình không tốt, do rơi vào tình thế bắt buộc, … từ đó mới xây dựng được phương án, cung cấp dịch vụ tốt nhất cho thân chủ.
  • Chi phí dịch vụ luật sư, tùy vào từng trường hợp, vụ việc cụ thể chi phí luật sư sẽ khác nhau, có những vụ án có tính chất phức tạp, thì ngoài chi phí luật sư còn nhiều chi phí khác như chi phí giám định thương tích thương tật, giám định tự thi, chi phí dựng hiện trường, … Do đó, Tùy vào từng vụ việc cụ thể và hoàn cảnh của thân chủ để đưa ra mức phí phù hợp.

Phí dịch vụ luật sư hình sự được tính như thế nào?

Một trong những nguyên tắc hành nghề luật sư phải thông báo rõ ràng mức thù lao, chi phí cho khách hàng, tuy nhiên, vì tính chất nhạy cảm của vụ án hình sự, chi phí dịch vụ hình sự không giống như các chi phí dịch vụ luật sư khác, không có mức phí cố định, rõ ràng.

Như đã đề cập ở trên, tùy vào từng trường hợp cụ thể của vụ việc mà phí dịch vụ luật sư sẽ khác nhau. Chi phí luật sư trong vụ án hình sự rất phức tạp, tùy vào từng sự việc, luật sư đưa ra mức chi phí cụ thể, do đó, quý khách hàng cần phải gặp trực tiếp với luật sư của công ty luật để có thể trao đổi và đánh giá tính phức tạp của vụ việc mới có thể đưa ra được mức phí phù hợp

Ngoài chi phí dịch vụ luật sư, còn có những khoản phí riêng khác, không nằm trong chi phí dịch vụ luật sư như:

  • Chi phí giám định thương tật
  • Chi phí cho người làm chứng
  • Chi phí bồi thường dân sự

Có cam kết kết quả trong vụ án hình sự không?

Công ty luật Dragon của chúng tôi đảm bảo thực hiện công việc theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định và đảm bảo tuân thủ đúng 27 quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam theo quy định tại Quyết định số 201/QĐ-HĐLSTQ ngày 13/12/2019 của Hội Đồng luật sư toàn quốc.

Công ty chúng tôi luôn đặt quyền lợi khách hàng lên đầu, cam kết giữ bí mật những thông tin liên quan đến khách hàng, đem những hiểu biết, kinh nghiệm trong hoạt động tố tụng hình sự, sự tận tâm, nhiệt tình của mình đến cho khách hàng.

Trên đây là toàn bộ nội dung bài giới thiệu dịch vụ luật sư hình sự và hướng dẫn cách chọn luật sư hình sự. Quý khách hàng nếu có nhu cầu sử dụng dịch vụ luật sư hình sự của công ty chúng tôi hoặc có thắc mắc về chính sách dịch vụ luật sư của công ty vui lòng liên hệ hotline 098.301.9109 để được tư vấn và hỗ trợ kịp thời.

Luật Dragon nhận hỗ trợ “tư vấn” trực tuyến 24/24 qua các hình thức như sau:

  • Tư vấn pháp luật qua EMAIL: congtyluatdragon@gmail.com
  • Tư vấn pháp luật qua FACEBOOK: Fanpage Luật Dragon
  • CÔNG TY LUẬT DRAGON

    LUÔN ĐỒNG HÀNH CÙNG QUÝ KHÁCH!

    TRỤ SỞ CHÍNH CÔNG TY LUẬT DRAGON:

    Add: Phòng 14.6, Tòa nhà Vimeco, Lô 9E, Đường Phạm Hùng, Quận Cầu Giấy, Hà Nội.

    Tel: 1900. 599. 979

    VĂN PHÒNG ĐẠI DIỆN LUẬT SƯ TẠI QUẬN LONG BIÊN:

    Add: Số 24 ngách 29 Phố Trạm phường Long Biên, quận Long Biên, thành phố Hà Nội

    Tel : 1900. 599. 979

    VĂN PHÒNG LUẬT SƯ TẠI HẢI PHÒNG:

    Add: Số 102, Lô 14 đường Lê Hồng Phong, Phường Đằng Lâm,Quận Hải An, Hải Phòng.

    Tel : 1900. 599. 979

    VĂN PHÒNG LUẬT SƯ TẠI TP HCM:

    Tel : 1900. 599. 979

    =====================

    BAN GIÁM ĐỐC CÔNG TY LUẬT DRAGON:

    Luật Sư Nguyễn Minh Long

    Điện Thoại: 098.301.9109

    Email: dragonlawfirm@gmail.com

Quy trình giải quyết vụ án hình sự

Từ khóa: thuê luật sư vụ án hình sự,Giá thuê luật sư,Chi phí thuê luật sư vụ án hình sự,Có nên thuê luật sư,Chi phí thuê luật sư có được bồi thường,Hợp đồng thuê luật sư,Chi phí thuê luật sư bào chữa, chi phí thuê luật sư bào chữa

Luật sư bào chữa giỏi tại Hải Phòng

Xã hội càng phát triển, nghề luật sư càng có vai trò quan trọng. Hằng ngày, nhiều tranh chấp, kiện tụng phát sinh và luật sư phải đứng ra tranh đấu để bảo vệ lẽ phải, công lý.

Bảo vệ lẽ phải

Luật sư Nguyễn Minh Long ở Văn phòng luật sư Dragon (Chi nhánh Hải Phòng) đã có gần 10 năm gắn bó với nghề. Giống như nhiều đồng nghiệp khác, công việc trong ngày của anh khá bận rộn và luôn phải di chuyển. Từ việc xếp lịch gặp khách hàng, lịch làm việc tại tòa án, đi thu thập chứng cứ… đều được anh thực hiện một cách cẩn trọng. Nhiều khi các luật sư còn trở thành chuyên gia tâm lý giúp thân chủ và người nhà yên tâm, tin tưởng vào lẽ phải.

Luật sư Long cho biết: “Nhiệm vụ của chúng tôi là bảo vệ công lý và lẽ phải. Vì vậy, mỗi vụ việc đều phải được tìm hiểu một cách kỹ lưỡng, chính xác, mất nhiều thời gian, công sức. Chỉ cần một sai sót cũng có thể dẫn đến những hậu quả khó lường”.

Giữ tâm trong sáng

Luật sư Long chia sẻ, hơn 10 năm gần đây, xã hội, con người có nhiều thay đổi, phát sinh nhiều mâu thuẫn phức tạp. Các vụ án liên quan đến kinh tế, hình sự, tranh chấp đất đai, hôn nhân – gia đình xảy ra nhiều hơn, phức tạp hơn. Vì thế, công việc của giới luật sư cũng vất vả gấp nhiều lần. Tuy nhiên, anh quan niệm phải luôn giữ tâm trong sáng để mỗi vụ việc đều được xử lý chính xác, theo đúng pháp luật. Nhiều lúc, các luật sư còn trở thành chuyên gia tư vấn  miễn phí.

Năm 2012, luật sư Long nhận tư vấn thủ tục ly hôn cho một phụ nữ ngoài 50 tuổi ở Quận Hồng Bàng. Do người chồng làm thợ xây nên hay đi nhiều nơi, có quan hệ phức tạp, về nhà thường chửi mắng vợ con. Không chịu nổi tình cảnh này, người vợ quyết định ly hôn. Qua tiếp xúc và tìm hiểu câu chuyện, anh Phán nhận thấy vẫn có cơ hội cứu vãn cuộc hôn nhân này. Bằng vốn kinh nghiệm qua từng vụ án và đời sống thường ngày, anh phân tích, giảng giải để người phụ nữ kia hiểu được điều hơn, thiệt. Lúc đầu, người phụ nữ này không nghe mà cương quyết đưa chồng ra tòa. Tuy nhiên, sau nhiều lần tiếp xúc, động viên, phân giải, họ đã chữa lành được vết thương, bỏ qua những lỗi lầm để hàn gắn trở lại.

Một số người vẫn hay nghĩ luật sư là nghề có nhiều quan hệ, kiếm được nhiều tiền nhưng thực tế những khó khăn, vất vả chỉ có người trong nghề mới hiểu hết. Để có thể trở thành một luật sư phải trải qua một thời gian dài học tập và đào tạo. Theo quy định, ngoài tấm bằng cử nhân, luật sư phải qua lớp đào tạo kỹ năng hành nghề luật sư, thời gian tập sự và thi qua kỳ thi kết thúc tập sự. Thời gian này tối thiểu là 6 năm hoặc có thể kéo dài hơn. Có người theo đuổi cả chục năm mới trở thành một luật sư.

Luật sư Long cho biết: “Công việc vất vả lắm nhưng thu nhập của anh em luật sư cũng chỉ đủ sống. Nhiều khi gặp trường hợp khó khăn, người cao tuổi, gia đình chính sách, chúng tôi chỉ làm giúp chứ không nhận phí. Gặp người tốt, sau khi tư vấn hay hoàn tất vụ việc thì họ đến có lời cảm ơn. Nhưng cũng có trường hợp mình thấy vấn đề của họ khiếu nại là sai, phân tích để nhận ra lẽ phải thì họ phản ứng ra mặt, thậm chí còn có những lời nói không đúng mực. Dù vậy, chúng tôi vẫn luôn giữ vững cái tâm với nghề”.

Công việc vất vả nên không phải ai cũng gắn bó được với nghề. Vì thế, người trẻ thường ít chọn học luật và đầu tư thời gian, chất xám để trở thành luật sư. Hiện nay, Hải Phòng có hơn 100 luật sư đang hành nghề, trong đó có khoảng 30 người là người cao tuổi, đã nghỉ hưu. Chỉ có tình yêu nghề mới giúp họ gắn bó với nghề luật sư trong thời gian dài. Mặc dù khó khăn là thế nhưng các luật sư như anh Long  luôn tin rằng nghề luật sư sẽ có triển vọng trong tương lai vì góp phần bảo đảm công bằng xã hội.

Văn phòng luật sư Dragon Hải Phòng

Khi nào cần thuê luật sư bào chữa

Thuê luật sư là việc người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị buộc tội, bị can, bị cáo và người thân thích của họ là cha, mẹ, vợ, con, ông, bà… thuê luật sư bào chữa cho trường hợp của gia đình nhà mình

Vai trò của Luật sư, luật sư tham gia vụ án hình sự với vai trò là người bào chữa, khi thực hiện bào chữa cho người bị buộc tội, người bị tạm giữ, người bị tạm giam, bị can, bị cáo trong tất cả các giai đoạn từ Điều tra vụ án, khởi tố vụ án, Truy tố vụ án và xét xử vụ án, luật sư sẽ thực hiện các quyền bào chữa để bảo chữa cho các bị can, bị cáo.

Thuê luật sư bào chữa cho người bị bắt là trường hợp người bị tình nghi hay còn gọi là nghi can có thể bị bắt quả tang hoặc bị tạm giữ song bắt hoặc bị mời về làm việc tại trụ sở cơ quan điều tra song bắt, trong tường hợp này người bị bắt có quyền thuê luật sư để bào chữa cho mình. Việc luật sư tham gia bào chữa từ giai đoạn này là hết sức cần thiết vì tham gia ngay từ ban đầu sẽ bảo đảm được quyền của người bị bắt cũng như làm sáng tỏ các sự kiện khách quan của vụ án

Thuê luật sư bảo chữa cho bị can khi phạm tội Khi một ai đó có hành vi phạm tội đã bị cơ quan Cảnh sát điều tra, cơ quan Công an khởi tố vụ án và khởi tố bị can, lúc đó người bị khởi tố trở thành bị can và có quyền mời luật sư bào chữa cho mình để tham gia vào vụ án. Luật sư khi tham gia bào chữa cho bị can sẽ giúp đỡ bị can về mặt pháp luật, sử dụng các biện pháp cần thiết và hợp pháp để bảo vệ bị can. Quá trình bào chữa của luật sư cho bị can từ khi bị mời lên làm việc, khi bị khởi tố tại cơ quan Điều tra, khi bị Viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền truy tố bị can bằng Bản cáo trạng và cho đến khi Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử. nói như vậy không có nghĩa là luật sư sẽ chấm dứt tư cách bào chữa cho bị can mà tư cách của bị can được chuyển sang thành tư cách Bị cáo.

Thuê luật sư bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa: Khi một bị can hay người bị buộc tội bị Tòa án nhân dân có thẩm quyền có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì lúc đó được chuyển sang một tư cách mới là tư cách bị cáo, Luật sư người bào chữa tiếp tục bào chữa cho bị cáo trong toàn bộ quá trình xét xử vụ án ở giai đoạn sơ thẩm hoặc phúc thẩm nếu bị cáo có kháng cáo và tiếp tục mời luật sư bào chữa cho mình. Luật sư bào chữa cho bị cáo có những quyền và nghĩa vụ nhất định, tư vấn và hỗ trợ pháp lý cũng như trao đổi với bị cáo để sao cho bào chữa cho bị cáo được tốt nhất.

Thuê luật sư tham gia vụ án hình sự là trường hợp đã xác định một vụ án hình sự, vụ án có thể hình thành từ giai đoạn khởi tố vụ án, khởi tố bị can và tiến hành điều tra hoặc có thể vụ án đã được Viện kiểm sát có thẩm quyền tiến hành xem xét truy tố ra tòa án và cũng có thể vụ án đã được tòa án chuẩn bị đưa ra xét xử sơ thẩm hoặc xét xử phúc thẩm. Luật sư tham gia vào vụ án hình sự sẽ thực hiện các nhiệm vụ quyền hạn của người bào chữa để nghiên cứu hồ sơ và bào chữa cho người được bào chữa.

Thuê luật sư bảo vệ cho người bị hại trong vụ án hình sự: Trong vụ án hình sự liên quan đến thiệt hại luật sư sẽ tham gia bảo vệ quyền và lợi ích của người bị hại, tham gia và các giai đoạn tố tụng tại Cơ quan Điều tra, Công an, Viện Kiểm sát và Tòa án; sao chụp hồ sơ tài liệu, thu thập chứng cứ và đưa ra cũng như bảo vệ các yêu cầu về bồi thường thiệt hịa cho người bị hại. Trong quá trình tranh tụ tại Tòa án, Luật sư sẽ phát biểu quản điểm luận tội đối với các bị cáo đã gây ra cho bị hại; nếu vụ án cần phải kháng cáo luật sư sẽ giúp bị hại thực hiện việc kháng cáo bản án theo quy định.

Thuê luật sư bào chữa cho người chưa thành niên, người chưa thành niên khi phạm tội là người dưới 18 tuổi, theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự thì đây là những người đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (14 tuổi) nhưng chưa thành niên (dưới 18 tuổi) khi phạm tội thì bắt buộc phải có luật sư. Thông thường bố mẹ hoặc người đại diện hợp pháp hay người giám hộ sẽ thuê luật sư bào chữa. Trường hợp không thể có điều kiện thuê luật sư thì cơ quan tiến hành tố tụng sẽ yêu cầu Đoàn luật sư chỉ định luật sư bào chữa. Đây là quyền cơ bản của người dưới thành niên để có thể bào chữa cho hộ được tốt nhất.

Luật sư bào chữa để trả hồ sơ điều tra bổ sung là trường hợp luật sư tham gia bào chữa cho bị can, bị cáo trong vụ án hình sự và vào từng giai đoạn cụ thể có thể là giai đoạn truy tố tại Viện kiểm sát, Luật sư kiến nghị việc trả hồ sơ cho cơ quan Điều tra để tiến hành điều tra bổ sung hoặc sau khi Viện kiểm sát đã quyết định truy tố bằng Bản cáo trạng ra Tòa án có thẩm quyền thì Luật sư kiến nghị Thẩm phán thụ lý vụ án ra Quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung hoặc Tại phiên tòa luật sư bào chữa để Hội đồng xét xử trả hồ sơ điều tra bổ sung.

Giai đoạn mà luật sư có quyền tham gia theo quy định tại Bộ luật TTHS, Luật Luật sư và các văn bản pháp luật liên quan, cụ thể:

I. Giai đoạn tố tụng mà luật sư có thể tham gia

Theo quy định tại khoản 2 Điều 72 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 (BLTTHS) thì người bào chữa có thể là:

“a) Luật sư;

b) Người đại diện của người bị buộc tội;

c) Bào chữa viên nhân dân;

d) Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý.”

Bên cạnh đó, Điều 74 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định về thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng như sau:

“Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can.

Trường hợp bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ.

Trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.”

Căn cứ những quy định trên, luật sư có thể tham gia tố tụng để bào chữa cho em bạn khi em bạn hoặc gia đình bạn có giấy mời luật sư sau đó Luật sư sẽ tiến hành những thủ tục cần thiết để được cấp Giấy chứng nhận bào chữa theo quy định của BLTTHS và những văn bản có liên quan.

II. Quyền hạn của Luật sư (người bào chữa)

Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa được quy định cụ thể tại Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 như sau:

“1. Người bào chữa có quyền:

a) Gặp, hỏi người bị buộc tội;

b) Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can;

c) Có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này;

d) Được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này;

đ) Xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình, quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;

e) Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế;

g) Đề nghị tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này; đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

h) Thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

i) Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;

k) Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản;

l) Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa từ khi kết thúc điều tra;

m) Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa;

n) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

o) Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất theo quy định của Bộ luật này.

Bạn có thể tham khảo thêm nội dung tư vấn áp dụng văn bản pháp luật theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003:

I. Giai đoạn tố tụng mà luật sư có thể tham gia

Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) thì người bào chữa có thể là:

1.  Luật sư;

2.  Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;

3.  Bào chữa viên nhân dân.

Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 58 BLTTHS có quy định: Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can, Trong trường hợp bắt người theo quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.

Căn cứ những quy định trên, luật sư có thể tham gia tố tụng để bào chữa cho em bạn khi em bạn hoặc gia đình bạn có giấy mời luật sư sau đó Luật sư sẽ tiến hành những thủ tục cần thiết để được cấp Giấy chứng nhận bào chữa theo quy định của BLTTHS và những văn bản có liên quan.

II. Quyền hạn của Luật sư (người bào chữa)

Theo quy định tại khoản 2 Điều 58 BLTTHS thì Luật sư (người bào chữa) có quyền:

1.  Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;

2.  Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can;

3.  Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này;

4.  Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác;

5.  Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

6.  Gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam;

7.  Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật;

8.  Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà;

9.  Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

10. Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Thuê luật sư bào chữa hình sự ở Hà Nội

Gọi cho một luật sư chuyên hình sự tại Hà Nội : 1900. 599. 979

Bạn đã bị buộc tội về một tội ác mà bạn đã không phạm phải và tìm kiếm công lý nhanh chóng và không bị tổn thương trong khi duy trì danh dự và nhân phẩm của bạn? Hoặc, có lẽ bạn đã là nạn nhân của một tội ác và tìm kiếm sự trừng phạt hợp pháp đối với những người đã làm hại bạn hoặc gia đình bạn. Bạn thậm chí có thể tự mình phạm tội và mong muốn giải quyết tốt nhất có thể. Bất kể nguyên nhân hay động cơ, Văn phòng Luật sư Dragon sẽ tạo điều kiện cho công lý nhanh chóng và phù hợp cho các khách hàng tại Hà Nội và Hải Phòng của chúng tôi để họ nhận được phán quyết tốt nhất có thể.

Đó là, nếu bạn đã bị nhà nước buộc tội theo bộ luật hình sự, bắt buộc phải xuất hiện trước cơ quan quản lý hoặc muốn kháng cáo quyết định, Văn phòng Luật sư Dragon sẽ luôn cung cấp cho bạn sự hài lòng hoàn toàn. Hơn nữa, chúng tôi tính phí trên cơ sở lãi suất cố định để bạn nhận thức đầy đủ về các khoản chi tiêu trước khi chúng tôi thực hiện trường hợp của bạn. Bạn sẽ không bao giờ phải lo lắng về các cáo buộc ẩn hoặc những bất ngờ khó chịu khác trước và sau khi phán quyết được đưa ra.

Hơn nữa, Văn phòng Luật sư Dragon sẽ luôn bảo vệ bạn một cách trung thực và đạo đức. Chúng tôi sẽ sử dụng mọi phương tiện theo ý của chúng tôi để đảm bảo rằng công lý được đáp ứng và bạn sẽ nhận được phán quyết tốt nhất có thể, đưa ra bằng chứng. Văn phòng luật sư Dragon cũng sẽ tham khảo đầy đủ với bạn về các tùy chọn có sẵn và đề xuất lựa chọn tốt nhất cho nhu cầu duy nhất của bạn. Đó là, chúng tôi luôn đặt lợi ích tốt nhất của bạn lên hàng đầu và sẽ thực hiện các bước chủ động để vượt ra ngoài sự đại diện đơn thuần.

Ví dụ, các luật sư hình sự tại Hà Nội của chúng tôi được yêu cầu đăng ký vào các chương trình sáng kiến ​​giáo dục thường xuyên để họ cập nhật kiến thức hiểu biết hệ thống pháp lý – và tất cả các sắc thái của nó – một cách triệt để. Chúng tôi cũng đầu tư vào nghiên cứu và phát triển công nghệ để đảm bảo rằng kiến ​​thức về các đạo luật pháp lý của chúng tôi luôn cập nhật và chính xác.

Do đó, nếu bạn đã bị buộc tội hoặc là nạn nhân của tội phạm, bạn sẽ cần một luật sư pháp lý tốt nhất để đưa ra phán quyết mà bạn mong muốn. Các công tố viên và luật sư hình sự tận tâm, có kinh nghiệm và có trình độ học vấn cao của chúng tôi có một hồ sơ theo dõi thành công đã được chứng minh và có khả năng sẽ tạo điều kiện cho bản án mà bạn và gia đình bạn mong muốn. Hơn nữa, chúng tôi đã xử lý các vụ án hình sự từ rửa tiền đến giết người hàng loạt. Do đó, không có vụ án hình sự nào ở Hà Nội quá tầm thường hay khó khăn đối với các luật sư hình sự tại Văn phòng Luật sư Dragon.

Hãy cho chúng tôi về trường hợp hay vụ việc của bạn

Đại diện tư vấn trực tiếp của chúng tôi luôn sẵn sàng 24/7 để hỗ trợ bạn và có thể lên lịch tư vấn với chuyên gia luật của chúng tôi.

Thuê luật sư bào chữa cho người bị bắt

Thuê luật sư bào chữa cho người bị bắt là trường hợp người bị tình nghi hay còn gọi là nghi can có thể bị bắt quả tang hoặc bị tạm giữ song bắt hoặc bị mời về làm việc tại trụ sở cơ quan điều tra song bắt, trong tường hợp này người bị bắt có quyền thuê luật sư để bào chữa cho mình.

Người bị bắt tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt tạm giữa người bị bắt tạm giữ được nghe, nhận lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, quyết định phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp;

Người bị bắt tạm giữ trong trường hợp khẩn cấp có các quyền:

– Được biết lý do mình bị giữ;

– Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự;

– Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;

– Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

– Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tố tụng kiểm tra, đánh giá và các quyền khác

Người bị bắt tạm giữ có được quyền nhờ luật sư. Theo quy định thì người bị bắt tạm giữ có quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật sư bảo chữa cho mình. Nếu nhờ luật sư bào chữa họ có quyền yêu cầu cơ quan đang thụ lý vụ việc liên hệ luật sư để họ có thể nhờ luật sư bào chữa cho mình, ngoài ra họ cũng có các quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc giữ người, bắt người.

Người bị bắt theo quy định tại Điều 58 Bộ luật Tố tụng hình sự thì là bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc bắt theo quyết định truy nã. Khi bị bắt người bị bắt có các nghĩa vụ chấp hành lệnh bắt người và yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền bắt người theo quy định của pháp luật.

Người bị bắt khi bị bắt có quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật sư bào chữa và một số quyền cơ bản sau:

Được biết lý do mình bị giữ, bị bắt;
Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;
Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tố tụng kiểm tra, đánh giá;
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc giữ người, bắt người. Và một số quyền khác.
Khi bị tạm giữ có được thuê luật sư? Người bị tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ. Ngoài các quyền cơ bản được quy định tại Khoản 2 Điều 59 Bộ luật Tố tụng hình sự thì người bị tạm giữ có quyền tự bào chữa hoặc thuê luật sư bào chữa.

Thuê luật sư bào chữa tại Công ty luật Dragon. Vui lòng liên hệ: 1900.599.979

 

Khi chưa khởi tố mà nhận được giấy triệu tập của công an có nên thuê luật sư bào chữa

Tôi có giấy triệu tập của công an thành phố, liên quan đến tội trộm cắp xảy ra do bạn tôi làm đơn, mặc dù tôi khẳng định tôi không liên quan đến sự việc của bạn tôi mất trộm? mất bao nhiêu tiền? mất ở đâu ? như thế nào? bạn ấy làm đơn vu khống cho tôi.. Tôi bị công an gọi điện mời tôi, tôi vì không hiểu pháp luật nên đã ký hợp đồng thuê luật sư bào chữa bảo vệ cho tôi, đến lịch hẹn làm việc theo giấy triệu tập? Luật sư của tôi đi cùng tôi đến xuất trình tại công an điều tra như giấy giới thiệu, đơn mời luật sư bào chữa và thẻ luật sư, nhưng bên công an đã từ chối không cho luật sư bào chữa cho tôi tham gia với lý do, hiện nay chưa khởi tố vụ án, chưa khởi tố tôi, công an chỉ mời lên làm rõ sự việc, công an đề nghị tôi và luật sư bổ sung thêm hợp đồng dịch vụ pháp lý? Lúc đấy tôi thấy luật sư bảo tôi cứ làm việc với công an và luật sư bỏ ra về. Tôi rất hoang mang và đã bị sốc nên từ chối không làm việc với công an và xin hẹn buổi khác, tôi có nói với công an là phải có luật sư thì tôi mới làm việc sau đó tôi đi về. Luật sư của tôi không giải thích cho tôi biết lý do và ý kiến của cơ quan điều tra đúng hay sai? Nay tôi nhờ luật sư tư vấn ý kiến của công an như vậy có đúng không? luật sư bảo vệ cho tôi làm như vậy có đúng không? Tôi rất hoang mang khi tìm chọn một công ty luật có uy tín mà lại có một luật sư hành xử như vậy? Rất mong Công ty luật Dragon tư vấn gấp cho tôi.

Phúc đáp yêu cầu tư vấn pháp luật của anh/chị, đề nghị cho ý kiến về một số nội dung pháp lý liên quan đến việc: người bị kiến nghị khởi tố/bị tố giác có được mời Luật sư không, Luật sư Công ty luật Dragon có ý kiến như sau:

*) Đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác:

Theo như trình bày thì anh/chị đang bị tố giác về hành vi trộm cắp tài sản. Khoản 1 Điều 83 Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác là người được người bị tố giác nhờ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Luật sư là một trong những người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác (điểm a khoản 2 Điều 83 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015). Như vậy, anh/chị có quyền mời Luật sư để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình ngay từ khi bị tố giác (từ khi chưa có quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can).

Khoản 1 Điều 27 Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi bổ sung năm 2012) quy định: “Hoạt động tham gia tố tụng của luật sư phải tuân theo quy định của pháp luật về tố tụng và Luật này”.

Bộ Luật Tố tụng hình sự không quy định rõ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác phải xuất trình những giấy tờ gì khi làm việc với Cơ quan Cảnh sát điều tra. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm làm việc thực tế của Luật sư và quy định tại điểm a khoản 2 Điều 78 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì những giấy tờ Luật sư cần xuất trình khi làm việc với Cơ quan CSĐT là: Giấy giới thiệu của công ty luật cử luật sư đến cơ quan điều tra làm việc, Thẻ luật sư kèm theo bản sao có chứng thực và giấy yêu cầu đơn mời luật sư của người bị tố giác ( anh chị cũng như Luật sư không phải xuất trình Hợp đồng dịch vụ pháp lý).

Như vậy, việc công an từ chối không cho luật sư tham gia với lý do: hiện nay chưa khởi tố vụ án, chưa khởi tố bị can, công an chỉ mời lên làm rõ sự việc và đề nghị anh và luật sư bổ sung thêm hợp đồng dịch vụ pháp lý là vi phạm tố tụng.

*) Quyền của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác:

Khoản 3 Điều 83 Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 quy định: Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác có quyền:

  1. a) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
  2. b) Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
  3. c) Có mặt khi lấy lời khai người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố và nếu được Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên đồng ý thì được hỏi người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố. Sau mỗi lần lấy lời khai của người có thẩm quyền kết thúc thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có quyền hỏi người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố;
  4. d) Có mặt khi đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố;

đ) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Luật sư bào chữa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của anh/chị không đưa ra ý kiến nào và bỏ về khi bị công an từ chối là không thực hiện quyền của mình theo quy định trên. Không bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp tốt nhất cho khách hàng. Việc anh/chị từ chối không làm việc với công an, xin hẹn buổi khác và nói với công an là phải có luật sư bào chữa cho anh/chị thì anh/ chị mới làm việc với cơ quan điều tra là đúng với quy định của pháp luật.

Trên đây là quan điểm ý kiến của Thạc sĩ Luật sư Nguyễn Minh Long Giám đốc Công ty Luật Dragon – Đoàn Luật sư TP. Hà Nội về nội dung vụ viêcj trên.

Để biết thêm thông tin chi tiết bạn có thể liên hệ với Luật sư Hà Nội và Luật sư Hải Phòng theo địa chỉ dưới đây.

  1. Trụ sở chính Công ty Luật Dragon tại quận Cầu Giấy:  Phòng 6, Tầng 14, Tòa nhà VIMECO, Đường Phạm Hùng, Phường Trung Hòa, Quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội.
  2. VPĐD luật sư Công ty luật Dragon tại quận Long Biên: Số 24 Ngõ 29 Phố Trạm, phường Long Biên, quận Long Biên, Tp Hà Nội.
  3. Chi nhánh Công ty Luật Dragon tại Hải Phòng: Phòng 6 tầng 4 Tòa Nhà Khánh Hội, đường Lê Hồng Phong, quận Hồng Bàng, Tp Hải Phòng.

Công ty Luật Dragon cung cấp biểu phí và thù lao luật sư bào chữa tham khảo tại đây

Trân trọng!

CÔNG TY LUẬT DRAGON

Luật sư chuyên bào chữa vụ án hình sự

ĐIỀU LUẬT

ÁN LỆ