1900599979

Ngày 17 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai, vụ án hình sự thụ lý số 1008/2019/TLPT-HS ngày 13 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo Nguyễn Văn D. Do có kháng cáo của bị cáo, đại diện hợp pháp của người bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt, đối với Bản án Hình sự sơ thẩm số 346/2019/HS-ST ngày 01/11/2019 của Toà án nhân dân thành phố N.

1. Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Văn D, sinh năm 1985; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn Thượng, xã H, huyện O, thành phố N; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Đạo Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Â, sinh năm 1962 và con bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1963; có vợ là Nguyễn Thị H, sinh năm 1989 và có 02 con chung; con lớn sinh năm 2013 và con nhỏ sinh năm 2015 (Hiện đều đã chết); Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt tạm giam từ ngày 21/5/2018 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 02- Công an thành phố N; có mặt.

2. Người đại diện hợp pháp của bị hại có kháng cáo: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1989; Địa chỉ: Thôn Trên, xã H, huyện O, thành phố N (mẹ đẻ của hai người bị hại Nguyễn Long N và Nguyễn Thị Lệ V); có mặt.

3. Người bào chữa cho bị cáo theo chỉ định của Tòa án: Ông Nguyễn Ánh Thơm, Luật sư thuộc Văn phòng Luật sư Nguyễn Anh – Đoàn luật sư thành phố N; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Năm 2008, Nguyễn Văn D kết hôn với chị Nguyễn Thị H, vợ chồng chung sống tại thôn Thượng, xã H, huyện O, thành phố N. Ngày 15/01/2013, chị H sinh được con trai đặt tên là Nguyễn Long N và đến ngày 10/5/2015, tiếp tục sinh được 01 con gái đặt tên là Nguyễn Thị Lệ V. Khoảng tháng 4/2018, D nghi ngờ chị H có quan hệ tình cảm yêu đương với người đàn ông khác, nghi ngờ hai cháu N và Vi không phải con ruột của mình. D đã căn vặn nhiều lần nhưng chị H không thừa nhận,dẫn đến hai người thường xảy ra cãi vã, xô xát nhau. Do bức xúc về việc bị đánh, nên chị H đưa cả cháu N và cháu V về sống tại nhà mẹ ruột là bà Nguyễn Thị Liên tại thôn Trên, xã H, huyện O, Hà Nội. Thời gian này, chị H đã nhiều lần liên lạc với D bằng tin nhắn, gọi điện thoại để thông báo sẽ thực hiện việc ly hôn với D, đã chuẩn bị đơn để Tòa án giải quyết; đồng thời, chị H chụp ảnh lại tờ đơn xin ly hôn gửi qua ứng dụng Zalo cho D. Sau khi xem được hình ảnh do chị H chuyển, D bực tức và nảy sinh ý định sẽ giết chết cháu N và cháu V để cho chị H ân hận. Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 18/5/2018, trên đường đi làm về, D vào cửa hàng của chị Nguyễn Thị Ngà đang bán hàng giống cây trồng, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật tại Kiốt số 1 thuộc Công ty Cổ phần giống cây trồng Hà Tây tại phường Phú Lãm, quận Hà Đông để mua 01 hộp thuốc trừ sâu hiệu WAMTOX 100EC, bên trong có 10 túi thuốc trừ sâu nhỏ, dạng nước, với giá 18.000 đồng, D mang về nhà cất vào khu bếp.

Khoảng 05 giờ 30 phút ngày 19/5/2018, D lấy 01 tờ giấy ra viết nội dung:“Con bất hiếu, con xin lỗi bố mẹ, sau khi bố mẹ biết con đã đi quá xa rồi. Con có nguyên do của con. Sau khi con chết con xin bố mẹ cho 03 bố con nhà con đi thiêu, tro cho vào 01 lọ. Con một lần nữa xin bố mẹ tha thứ. Việc làm và hành động của con. Các em của anh. Anh không có nhà hãy chăm sóc bố mẹ giúp anh nhé. Em út của anh. Em vất vả rồi đó, về sau có một mình em hãy cố gắng lên. Sống cho tốt nhé, có mình em trong gia đình đó, làm gì, chơi gì hãy nghĩ về gia đình nhé. Em của anh. Cho lại một lần nữa xin lỗi bố mẹ chuyển lời cho con đến các chú, thím tha lỗi cho cháu. Cháu của chú bất hiếu rồi. Người con bất hiếu, con D”. Viết xong, D gấp lại và để dưới đầu giường gần tủ trang điểm. Do biết cháu N và cháu V được chị H gửi tại Nhà trẻ trong Đền thờ Đức Mẹ ở thôn Thượng, xã H. Khoảng 08 giờ 30 phút cùng ngày, D điều khiển xe máy Wave đến Nhà trẻ, xin phép được đón cháu N và cháu V về để đưa đi chơi. Đón xong, D cho 02 cháu lên xe máy chở về nhà mình. Khi về đến nhà, cháu N và cháu V chạy lên phòng ngủ trên tầng hai xem ti vi. D đi theo lên ngồi chơi với 02 cháu khoảng 15 phút. Sau đó, D xuống bếp lấy hộp thuốc trừ sâu (đã mua của chị Ngà ngày 18/5/2018) ra rồi xé 03 gói chia vào 02 cốc pha thêm nước và nước ngọt (loại nước bò húc) được khoảng gần 1/2 cốc. D nói với cháu N và cháu V: “Bố cho các con uống thuốc, cho khỏe rồi đi chơi cùng bố”. Nói xong, D cầm cốc thuốc trừ sâu đã pha cho cháu N uống, D nói “Con bịt mũi cho dễ uống”, cháu N uống hết một cốc thuốc trừ sâu do D vừa pha. Sau đó, D quay sang dỗ cháu V uống thì cháu V chỉ uống được 01 ngụm nhỏ. Sau khi uống thuốc trừ sâu xong, cháu N và cháu V vẫn ngồi trên giường xem ti vi. Khoảng 15 phút sau, D thấy cháu N đau quần quại và cháu V có biểu hiện đau nhẹ. Thấy vậy, D dùng tay trái bế và giữ chặt đầu cháu V và dùng tay phải cầm chiếc quần và khăn(nhặt ở giường) bịt vào mồm và mũi cháu V. Cháu V giãy giụa khoảng 10 phút thì bị tử vong. D biết cháu V đã chết nên đặt cháu N và cháu V nằm ngửa, cạnh nhau trên giường. D lấy 02 gói thuốc trừ sâu đổ vào cốc vừa sử dụng pha thuốc trừ sâu cho cháu V uống lúc trước, rồi tự mình uống hết chỗ thuốc trừ sâu vừa pha. Sau đó, D nhặt vỏ túi thuốc trừ sâu, các đồ vật vừa pha thuốc trừ sâu cho vào thùng rác trên tầng hai, lên giường nằm cạnh cháu V và cháu N. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày, D thấy trong người khó chịu và bị nôn ra các chất trong dạ dày. D nghĩ bị nôn ra thì không thể chết được, nên đi lên tầng 3 nằm trên tường, tay trái phía ngoài đường, tay phải phía tòa nhà giáo đường. D nghiêng người sang trái để rơi xuống đất nhưng trúng dây điện rồi rơi xuống đất, bị bất tỉnh thì được mọi người phát hiện, đưa đi cấp cứu. Khi chị Nguyễn Thị Dung (là cô họ và là hàng xóm của D) đi vào nhà, lên tầng 2 lấy quần áo cho D để thay trước khi đưa đi Bệnh viện cấp cứu, thì phát hiện thấy cháu Nguyễn Long N và cháu Nguyễn Thị Lệ V đang trong tư thế nằm ngửa, bất động trên giường, nên chị Dung hô hoán cùng mọi người đưa hai cháu đến Viện Quân y 103 Hà Đông cấp cứu, khi đưa đến Bệnh viện các cháu đã tử vong nên không cứu chữa được. Ngày 21/5/2018, Nguyễn Văn D bị bắt khẩn cấp.

Tại Phiếu khám bệnh ngày 19/5/2018 của Phòng B16, Bệnh viện Quân y 103 chẩn đoán đối với cháu Nguyễn Long N và cháu Nguyễn Thị Lệ V, xác định: Chết sinh vật ngoài bệnh viện theo dõi do ngộ độc thuốc trừ sâu.

Sau khi xảy ra vụ án, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện O và thành phố N đã phối hợp khám nghiệm hiện trường, pháp y tử thi nạn nhân Nguyễn Long N và Nguyễn Thị Lệ V và thu giữ vật chứng, tiến hành giám định đố với các vật chứng đã thu thập được, kết quả như sau:

Tại bản Kết luận giám định số 3370/C54(P4) ngày 11/7/2018 của Viện Khoa học Hình sự – Bộ Công an kết luận: Trong tất cả các mẫu gửi giám định (thu tại hiện trường) đều không tìm thấy chất độc thường gặp.

Tại bản Kết luận giám định số 6114/KLGĐ-PC54(Đ4) ngày 24/7/2018 của Phòng Kỹ thuật Hình sự – Công an thành phố N, kết luận: Chữ viết trên mẫu cần giám định (thư thu tại hiện trường) với chữ viết do Nguyễn Văn D viết ra là chữ do cùng một người viết ra.

Sau khi Nguyễn Văn D bị bắt giữ, Cơ quan điều tra đã căn cứ lời khai của Nguyễn Văn D để truy tìm và thu giữ vật chứng của vụ án gồm: 01 chiếc Cốc nhựa màu trắng, 01 hộp giấy đựng đựng các gói thuốc trừ sâu màu vàng, 05 gói ni lông màu vàng đựng thuốc trừ sâu đã bị bóc, 01 áo len sọc xám xanh, 01 chiếc quần màu vàng. Địa điểm truy tìm là tầng 2 nhà bà Túy nơi vợ chồng anh D sống và là hiện trường vụ án. Đồng thời mở rộng hiện trường tại tầng 2, tầng 1 và xung quanh khu vực nhà bà Túy khoảng 50 mét. Kết quả không phát hiện để thu giữ những đồ vật nêu trên.

Hồi 16 giờ 30 phút ngày 20/5/2018, chị Nguyễn Thị H (vợ của D)giao nộp một số vật dụng sử dụng hàng ngày trong phòng ngủ của vợ chồng chị và hai cháu, gồm: 01 chăn lông màu tím đỏ; 01 gối màu hồng; 02 gối người lớn có in hình hoa văn; 01 chiếc khăn quàng cổ ; 01 chiếc ga trải giường; 01 chiếc chăn nỉ màu nâu, vàng.

Tại bản Kết luận giám định số 2776/C54(P4) ngày 11/6/2018 của Viện Khoa học Hình sự – Bộ Công an, kết luận: “… – Trong các mẫu ghi thu của Nguyễn Văn D gồm: Mẫu dịch dạ dày, mẫu máu và mẫu dung dịch màu nâu vàng trong gói thuộc trừ sâu nhãn hiệu “WAMTOC 100 EC” gửi làm mẫu so sánh đều tìm thấy thành phần Cypermethrin (Cypermethrin là thuốc trừ sâu thuộc nhóm Pyrethroid, nhóm độc II); Trong mẫu nước tiểu ghi thu của Nguyễn Văn D gửi đến giám định không tìm thấy chất độc thường gặp”…

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N đã tiến hành các thủ tục để khám nghiệm tử thi đối với nạn nhân Nguyễn Long N và Nguyễn Thị Lê Vi. Tuy nhiên, gia đình của các nạn nhân gồm ông, bà nội ngoại và chị Nguyễn Thị H (là mẹ của hai cháu Long N, Lệ V và là vợ của D) đã chống đối, ngăn cản quyết liệt không đồng ý để các Cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện khám nghiệm đối với tử thi của hai cháu Nguyễn Long N và Nguyễn Thị Lê Vi. Do đó, Cơ quan chức năng không thực hiện được công tác khám nghiệm, pháp y tử thi nạn nhân Nguyễn Long N và Nguyễn Thị Lệ V Ngày 24/12/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N ra Quyết định khai quật và khám nghiệm tử thi số 01/QĐ-PC02-Đ3 và 02/QĐ-PC02-Đ3 đối với tử thi của cháu Nguyễn Long N và tử thi của cháu Nguyễn Thị Lệ V. Khi Cơ quan điều tra thi hành việc khai quật và khám nghiệm tử thi thì gia đình hai nạn nhân và Hội đồng giáo xứ Thạch Bích không cho tiến hành vì cho rằng việc khai quật sẽ vướng mắc đến những quy tắc Giáo luật đất thánh của Giáo hội công giáo và truyền thống đạo lý của Làng Công giáo. Do vậy, Cha xứ và Hội đồng giáo sứ cùng toàn thể giáo dân xứ Thạch Bích đã làm đơn đề nghị các cơ quan có thẩm quyền không khai quật thi thể của hai cháu N và Vi.

Về trách nhiệm dân sự: Chị Nguyễn Thị H không yêu cầu Nguyễn Văn D bồi thường về dân sự, đồng thời đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho Nguyễn Văn D.

Tại Bản án Hình sự sơ thẩm số 346/2019/HS-ST ngày 01 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố N, quyết định: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn D phạm tội “Giết người”; Áp dụng điểm a, b, n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 40 Bộ luật Hình sự năm 2015; Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D tử hình. Tiếp tục giam bị cáo để đảm bảo thi hành án. Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 04 tháng 11 năm 2019, bị cáo Nguyễn Văn D kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 04 tháng 11 năm 2019, đại diện hợp pháp người bị hại chị Nguyễn Thị H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Nguyễn Văn D.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Nguyễn Văn D giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, thành khẩn nhận tội, ăn năn hối lỗi về hành vi phạm tội của mình, trình bày nguyên nhân một phần do mâu thuẫn gia đình, đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo có cơ hội sống để cải tạo thành người công dân tốt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội: Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội và tình tiết giảm nhẹ của bị cáo, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và căn cứ kháng cáo của bị cáo và đại diện bị hại, kết luận: Bị cáo Nguyễn Văn D bị Viện kiểm sát truy tố và Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt về tội “Giết người”, theo điểm a, b, n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Về hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt: Tử hình là phù hợp. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo và giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm đối với bị cáo Nguyễn Văn D.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn D: Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội và tình tiết giảm nhẹ của bị cáo có quan điểm: Việc bị cáo bị xử phạt về tội “Giết người”, theo điểm a, b, n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự là đúng tội, đúng pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét nguyên nhân trong quan hệ vợ chồng chị Nguyễn Thị H cũng có một phần lỗi, từ việc nghi ngờ và đi giám định cho rằng không phải là con của mình, dẫn đến hành vi phạm tội của bị cáo, đề nghị giảm hình phạt cho bị cáo và xử mức hình phạt Tù Chung thân là phù hợp, tạo điều kiện cho bị cáo cải tạo thành người công dân tốt cho xã hội.

Đại diện người bị hại chị Nguyễn Thị H có quan điểm giữ nguyên kháng cáo, xác định nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội của bị cáo có một phần do lỗi của chị, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Nguyễn Văn D.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng tại cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại cấp sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Đơn kháng cáo của bị cáo, đại diện người bị hại gửi trong thời hạn luật định, được cấp phúc thẩm chấp nhận.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Văn D thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với lời khai của người làm chứng, lời khai của đại diện hợp pháp cho người bị hại, biên bản khám nghiệm hiện trường, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Nguyễn Văn D và chị Nguyễn Thị H kết hôn với nhau năm 2008, quá trình chung sống chị H sinh được hai con là: Cháu Nguyễn Long N, sinh ngày 15/01/2013 và cháu Nguyễn Thị Lệ V, sinh ngày 10/5/2015. Khoảng tháng 4/2018, D nghi ngờ chị H có quan hệ tình cảm yêu đương với người đàn ông khác và nghi ngờ cháu N, cháu V là con của người khác, dẫn đến hai vợ chồng mâu thuẫn, chị H đưa hai con về sống tại nhà mẹ đẻ tại thôn Trên, xã H, huyện O, thành phố N. Khi biết chị H có ý định ly hôn thì D bực tức, nảy sinh ý định sẽ cho cháu N, cháu V uống thuốc sâu để cùng chết, làm cho chị H phải ân hận. Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 18/5/2018, D đến Kiốt số 01 của chị Nguyễn Thị Ngà thuộc Công ty Cổ phần giống cây trồng Hà Tây, địa chỉ tại phường Phú Lãm, quận Hà Đông, thành phố N, mua một hộp thuốc trừ sâu hiệu “WAMTOX 100EC” với giá 18.000 đồng, D mang về nhà cất vào khu bếp. Đến khoảng 08 giờ 30 phút ngày 19/5/2018, D đi xe máy đến nhà trẻ trong Đền thờ Đức Mẹ ở Thôn Thượng, xã H đón cháu N và cháu V đưa về nhà, cho hai cháu lên phòng ngủ của tầng 2 chơi. Sau đó, D lấy hộp thuốc trừ sâu đã mua trước đó của chị Ngà ra, pha thêm nước và nước ngọt cho cháu N và cháu V uống. Khoảng 15 phút sau, D thấy cháu N đau quần quại và cháu V có biểu hiện đau nhẹ. Thấy vậy, D dùng tay trái bế và giữ chặt đầu cháu V, dùng tay phải cầm chiếc quần và khăn (nhặt ở giường) bịt vào mồm và mũi cháu V, cháu V giãy giụa khoảng 10 phút thì bị tử vong. Khi biết cháu N và cháu V chết, D đặt hai cháu nằm ngửa, cạnh nhau trên giường, D lấy hai gói thuốc trừ sâu pha uống để tự tử nhưng không chết. Sau đó, bị cáo đi lên tầng 3 nằm trên tường, nghiêng người sang bên trái để thả rơi xuống đất, nhưng trúng dây diện rồi rơi xuống đất nên không chết. Hậu quả cháu Nguyễn Long N, cháu Nguyễn Thị Lệ V được mọi người phát hiện nằm bất tỉnh trên giường, nên đã đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Quân y 103 Hà Đông, nhưng đã tử vong ngoài bệnh viện do bị ngộ độc thuốc trừ sâu. Với hành vi nêu trên của bị cáo đã vi phạm các tình tiết định khung hình phạt: Cố ý giết hai người, giết người dưới 16 tuổi, giết người có tính chất côn đồ. Do vậy, Tòa án nhân dân thành phố N xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D về tội “Giết người”, theo điểm a, b, n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất hành vi phạm tội: Bị cáo là người có đủ nhận thức về việc làm của mình là vi phạm pháp luật, hành vi của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng. Chỉ vì D nghi ngờ chị H có quan hệ, tình cảm yêu đương với người đàn ông khác và nghi ngờ cháu N, cháu V là con của người khác dẫn đến vợ chồng mâu thuẫn, khi biết chị H có ý định ly hôn, vì lý do nhỏ nhen và không có nguyên cớ, bị cáo đã có hành vi mua thuốc trừ sâu rồi cho cháu N, cháu V uống nhằm mục đích giết chết hai cháu, khi cháu V giẫy giụa thì D còn lấy quần và khăn bịt mũi cháu V cho đến khi cháu V ngừng thở. Hành vi của bị cáo đã tước đoạt tính mạng của hai cháu V và cháu N, khi cháu N mới 5 tuổi 4 tháng 4 ngày còn cháu V mới 3 tuổi 9 ngày, ngoài ra D còn mục đích để cho chị Nguyễn Thị H sẽ ân hận, day dứt suốt đời khi hai cháu bị chết. Trẻ em là đối tượng cần được chăm sóc, giáo dục, bảo vệ và sống trong một môi trường xã hội lành mạnh để được phát triển toàn diện, cháu N và cháu V là trẻ con, tuổi đời còn non nớt, chưa thể nhận thức được mọi sự việc và hành động của người lớn, trong khi đó bị cáo là người cha trực tiếp nuôi dưỡng, đón về nói cho uống thuốc để đi chơi nên các cháu tin tưởng thực hiện theo, bị cáo chủ động có sự chuẩn bị từ trước để thực hiện hành vi giết hai cháu. Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội và thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, thể hiện sự coi thường kỷ cương pháp luật, coi thường tính mạng, danh dự, nhân phẩm của người khác, gây hoang mang lo lắng trong dư luận quần chúng nhân dân, gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương. Mặc dù, sau khi phạm tội, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nhân thân của bị cáo chưa có tiền án tiền sự, gia đình của bị cáo có công với cách mạng, đại diện hợp pháp của người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt, nên được Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Tuy nhiên, trên cơ sở đánh giá khách quan, đầy đủ các chứng cứ của vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đúng tính chất, hành vi, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ, áp dụng hình phạt cao nhất là loại trừ bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, xử phạt bị cáo với mức hình phạt Tử hình là phù hợp, nhằm có tác dụng trừng trị, răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Xét kháng cáo đề nghị giảm nhẹ hình phạt:

Đi với kháng cáo của bị cáo: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo trình bày từ trước đến nay không vi phạm pháp luật; nhân thân không có tiền án, tiền sự; lần đầu phạm tội; gia đình có có công với cách mạng, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nguyên nhân một phần do vợ bị cáo là chị Nguyễn Thi H cũng có lỗi. Xét thấy, những căn cứ bị cáo đưa ra đã được cấp sơ thẩm cân nhắc, xem xét. Ngoài tình tiết giảm nhẹ đã được áp dụng, bị cáo không được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ mới. Mặt khác, như đã nêu trên, hành vi của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng và mức hình phạt Tử hình mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo là thỏa đáng. Do vậy, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Đi với kháng cáo của đại diện bị hại: Chị Nguyễn Thị H xác định nguyên nhân là do vợ chồng không có con, khi chị sinh được cháu N và cháu V thì bị cáo có nghi ngờ không phải là con chung, bị cáo đã tự đi giám định, chị H thừa nhận đã có quan hệ ngoài vợ chồng dẫn đến mâu thuẫn, nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội của D là do lỗi của chị H. Xét thấy, việc chị H có quan hệ ngoài vợ chồng là chị H có lỗi với bị cáo D, còn các cháu Nguyễn Long N và cháu Nguyễn Thị Lệ V hoàn toàn không có lỗi gì, hai cháu không có mâu thuẫn gì với bị cáo D, D còn cố ý thực hiện việc tước đoạt tính mạng của hai cháu đến cùng. Do vậy, căn cứ kháng cáo của chị H đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo D không có cơ sở, không được chấp nhận.

Quan điểm của Luật sư bào chữa cho bị cáo D: Đề nghị chấp nhận kháng cáo và giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo là không có cơ sở, nên không được chấp nhận.

[5] Quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội: Xét thấy, các căn cứ, lập luận và đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có cơ sở, được chấp nhận.

[6] Về Quyết định khác: Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[7] Về án phí: Bị cáo kháng cáo không được chấp nhận, phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật. Chị H kháng cáo không được chấp nhận, nhưng không phải nộp án phí phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án;

QUYẾT ĐỊNH

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn D và kháng cáo của chị Nguyễn Thị H.

2. Giữ nguyên Bản án Hình sự sơ thẩm số 346/2019/HSST ngày 01/11/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội.

Áp dụng điểm a, b, n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 40 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D: Tử hình, về tội “Giết người”.

Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án.

3. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn D phải nộp 200.000đ(Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Trong hạn 07 (Bảy) ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo Nguyễn Văn D có quyền làm đơn gửi Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xin ân giảm án tử hình.

Xếp hạng
5/5

Chia sẻ

Share on facebook
Share on twitter
Share on linkedin
Share on pinterest
Share on tumblr

Tư vấn trực tuyến

Bài viết liên quan

Thủ tục khiếu nại tố cáo

Thủ tục khiếu nại tố cáo theo quy định của pháp luật Việt Nam bao gồm các bước sau: Giải quyết khiếu nại lần đầu:

Giải đáp thắc mắc

Làm gì khi bị lừa đảo qua mạng

Luật sư tư vấn khi bị lừa đảo quan mạng, bạn cần bình tĩnh và thực hiện các bước sau: Dừng ngay việc gửi tiền hoặc thực hiện bất kỳ hành động nào khác theo yêu cầu của kẻ lừa đảo. Chặn tất cả các liên lạc từ kẻ lừa

Xem chi tiết »

ĐOÀN LUẬT SƯ HÀ NỘI

CÔNG TY LUẬT DRAGON

Giám đốc – Thạc sĩ Luật sư:  Nguyễn Minh Long

Công ty luật chuyên:

Hình sự – Thu hồi nợ – Doanh nghiệp – Đất Đai – Trọng tài thương mại – Hôn nhân và Gia đình.

  • Văn phòng luật sư quận Cầu Giấy:  Phòng 6 tầng 14 tòa nhà VIMECO đường Phạm Hùng, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
  • Văn phòng luật sư quận Long Biên: Số 24 ngõ 29 Phố Trạm, Phường Long Biên, Quận Long Biên, Hà Nội
  • Điện thoại: 1900 599 979 / 098.301.9109Email: dragonlawfirm@gmail.com

Hệ thống Website:

#luatsubaochua, #luatsutranhtung, #luatsuhinhsu, #luatsugioibaochua, #luatsubaochuahanoi, #luatsubaochuahaiphong

Điều luật tham khảo

Văn bản luật

Thủ tục liên quan đến thuê luật sư

Chi phí thuê luật sư bào chữa vụ án hình sự

Luật hình sự là quan hệ xã hội phát sinh giữa Nhà nước và người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội khi các chủ thể này thực hiện tội phạm. Theo quy định tại Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, những người có quyền nhờ luật sư bào chữa bao gồm:

  • Người bị bắt.
  • Người bị tạm giữ.
  • Bị can.
  • Bị cáo.
  • Bị hại.
  • Nguyên đơn dân sự.
  • Bị đơn dân sự.
  • Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.

Ngoài những đối tượng trên, theo quy định tại Điều 27 Luật Hình sự năm 2012, người đại diện hoặc người thân thích của người bị buộc tội cũng có quyền được nhờ luật sư bào chữa cho người bị buộc tội.

Quá trình tố tụng bắt đầu từ giai đoạn điều tra – truy tố – xét xử – thi hành án. Bất kể một cá nhân, đại diện, tổ chức nào ngay khi nhận được giấy mời, giấy triệu tập của cơ quan điều tra hoặc tại bất kỳ thời điểm nào trong quá trình tố tụng nêu trên đều có quyền và cần thiết phải nhờ sự hỗ trợ của luật sư.

Tuy nhiên, vì quá trình tố tụng kéo dài đói hỏi người bảo vệ quyền lợi cho thân chủ phải là người đồng hành cùng thân chủ trong xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự. Do đó, thời điểm tốt nhất để có thể nhờ luật sư bào chữa là ngay khi nhận được giấy triệu tập từ cơ quan điều tra. Vì, khi đó, luật sư có thể can thiệp pháp lý và bảo vệ cho thân chủ ngay từ giai đoạn đầu tiên.

Luật sư hình sự sẽ giúp ích gì cho bạn?

Luật sư hình sự tham gia vào vụ án hình sự trong suốt quá trình tố tụng từ sơ thẩm đến phúc thẩm hoặc có thể trong giai đoạn tái phẩm hoặc giám đốc thẩm với vai trò là người được nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự ủy quyền tham gia vụ án hoặc là người bảo vệ quyền và lợi ích cho thân chủ.

Tham gia vào ngay từ giai đoạn xác minh ban đầu, khi có giấy triệu tập và trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, luật sư hình sự có những nhiệm vụ sau:

  • Nghiên cứu, xác minh, thu thập chứng cứ theo quy định pháp luật để bảo vệ thân chủ. Đây là một trong những quyền và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 73 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
  • Đóng vai trò là người bảo vệ cho thân chủ tại những phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Giúp phiên tòa có cái nhìn khách quan hơn về động cơ, hoàn cảnh của thân chủ.
  • Luật sư hình sự là người am hiểu pháp luật, vận dụng những kỹ năng của một người luật sư, linh hoạt, mềm dẻo trong quá trình làm việc với cơ quan điều tra, cơ quan tiến hành tố tụng, giúp bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho thân chủ của mình.
  • Luật sư hình sự sẽ là người tư vấn đưa ra những giải pháp tốt nhất, đảm bảo đúng quy định pháp luật cho thân chủ của mình.

Vì sao bị can/bi cáo nên nhờ/thuê luật sư hình sự ngay từ ban đầu?

  • Từ khi bị triệu tập, nghi vấn phạm tội: có thể thuê luật sư ngay từ đầu để bảo vệ quyền lợi, có thể bị hình sự hóa trong quan hệ hình sự trong quá trình điều tra xét xử.
  • Giai đoạn tạm giam điều tra: Luật sư tiếp xúc trực tiếp với bị can/thân chủ hỏi cung, đối chất, đề xuất, kiến nghị tới cơ quan tiến hành tố tụng, yêu cầu họ thực hiện đúng quy định pháp luật để bảo cho thân chủ.
  • Tham gia bảo vệ (bào chữa) cho thân chủ tại những phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Giúp phiên tòa có cái nhìn khách quan hơn về động cơ, hoàn cảnh của thân chủ.
  • Luật sư hình sự là người am hiểu pháp luật, vận dụng những kỹ năng của một người luật sư, linh hoạt, mềm dẻo trong quá trình làm việc với cơ quan điều tra, cơ quan tiến hành tố tụng, tranh tụng giúp bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho thân chủ của mình.
  • Luật sư hình sự sẽ là người tư vấn đưa ra những giải pháp tốt nhất, đảm bảo đúng quy định pháp luật cho thân chủ của mình.

Đối với người bị hại thì Luật sư hình sự sẽ giúp ích những gì?

  • Luật sư thu thập chứng cứ
  • Tư vấn pháp luật hình sự cho người bị hại hiểu được hành vi của bi can/bị cáo biết được tội danh mà cơ quan điều tra khởi tố với người phạm tội đã đúng hay chưa
  • Giúp cho người bị hại soạn thảo các đơn từ kiến nghị để việc khởi tố/truy tố đối với bị can gây ra thương tích, gây ra thiệt hại cho người bị hại là “đúng người đúng tội”
  • Vấn đề về bồi thường: Luật sư tư vấn soạn thảo tính toán mức bồi thường để đưa ra yêu cầu xém xét bồi thường.

Tiêu chí để lựa chọn dịch vụ luật sư hình sự là gì?

Thông thường, mọi người có xu hướng lựa chọn luật sư thông qua quen biết vì cho rằng luật sư thông qua quen biết sẽ có độ tín nhiệm cao hơn hoặc là và có thể “nhờ vả” được. vậy đây có phải là một tiêu chí để lựa chọn luật sư?

Theo quy định tại quy tắc số 5 Quyết định số 201/QĐ-HĐLSTQ của liên đoàn luật sư Việt Nam về quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam thì một trong những quy tắc hành nghề chính là bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng, đây là một trong những quy tắc mà bất kì luật sư nào cũng thuộc nằm lòng.

Hơn nữa, hiện nay cuộc cách mạng cải cách tư pháp đã loại bỏ rất nhiều tiêu cực trong hoạt động tố tụng, quá trình xét xử, theo thông tư liên tịch số 03/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP quá trình xét xử phải được ghi âm ghi hình đảm bảo sự minh bạch rõ ràng tránh những hoạt động, hành vi tiêu cực trong xét xử.

Bất kỳ luật sư nào cũng có nghĩa vụ bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích cho thân chủ của mình, và quy trình hoạt động tố tụng cũng đã được quy định chặt chẽ hơn, các hoạt động tiêu cực cũng từ đó bị triệt tiêu dần. Do đó, yếu tố người thân người quen không phải là một trong những yếu tố, tiêu chí để lựa chọn luật sư, mà tiêu chí để lựa chọn luật sư bao gồm những tiêu chí sau:

  • Luật sư có chuyên môn trong lĩnh vực hình sự, đây là một yếu tố quan trọng của một luật sư hình sự vì phải hiểu rõ lý luận pháp luật, cập nhật thường xuyên những thay đổi của pháp luật, am hiểu cơ chế hoạt động điều tra thì mới có thể bảo vệ tốt cho thân chủ của mình.
  • Luật sư có kinh nghiệm trong hoạt động tố tụng hình sự, trong thực tiễn và tham gia tố tụng trong nhiều vụ án vì càng tham gia nhiều vụ án thì càng tích lũy được nhiều bản lĩnh, kinh nghiệm thâm niên lâu có thể giải quyết được không chỉ những vấn đề pháp luật mà vấn đề quan hệ với các cơ quan tố tụng, cơ quan điều tra.
  • Thấu hiểu hoàn cảnh, động cơ, lý do, hoàn cảnh của thân chủ ví dụ như: do hoàn cảnh khó khăn, do nền tảng gia đình không tốt, do rơi vào tình thế bắt buộc, … từ đó mới xây dựng được phương án, cung cấp dịch vụ tốt nhất cho thân chủ.
  • Chi phí dịch vụ luật sư, tùy vào từng trường hợp, vụ việc cụ thể chi phí luật sư sẽ khác nhau, có những vụ án có tính chất phức tạp, thì ngoài chi phí luật sư còn nhiều chi phí khác như chi phí giám định thương tích thương tật, giám định tự thi, chi phí dựng hiện trường, … Do đó, Tùy vào từng vụ việc cụ thể và hoàn cảnh của thân chủ để đưa ra mức phí phù hợp.

Phí dịch vụ luật sư hình sự được tính như thế nào?

Một trong những nguyên tắc hành nghề luật sư phải thông báo rõ ràng mức thù lao, chi phí cho khách hàng, tuy nhiên, vì tính chất nhạy cảm của vụ án hình sự, chi phí dịch vụ hình sự không giống như các chi phí dịch vụ luật sư khác, không có mức phí cố định, rõ ràng.

Như đã đề cập ở trên, tùy vào từng trường hợp cụ thể của vụ việc mà phí dịch vụ luật sư sẽ khác nhau. Chi phí luật sư trong vụ án hình sự rất phức tạp, tùy vào từng sự việc, luật sư đưa ra mức chi phí cụ thể, do đó, quý khách hàng cần phải gặp trực tiếp với luật sư của công ty luật để có thể trao đổi và đánh giá tính phức tạp của vụ việc mới có thể đưa ra được mức phí phù hợp

Ngoài chi phí dịch vụ luật sư, còn có những khoản phí riêng khác, không nằm trong chi phí dịch vụ luật sư như:

  • Chi phí giám định thương tật
  • Chi phí cho người làm chứng
  • Chi phí bồi thường dân sự

Có cam kết kết quả trong vụ án hình sự không?

Công ty luật Dragon của chúng tôi đảm bảo thực hiện công việc theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định và đảm bảo tuân thủ đúng 27 quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam theo quy định tại Quyết định số 201/QĐ-HĐLSTQ ngày 13/12/2019 của Hội Đồng luật sư toàn quốc.

Công ty chúng tôi luôn đặt quyền lợi khách hàng lên đầu, cam kết giữ bí mật những thông tin liên quan đến khách hàng, đem những hiểu biết, kinh nghiệm trong hoạt động tố tụng hình sự, sự tận tâm, nhiệt tình của mình đến cho khách hàng.

Trên đây là toàn bộ nội dung bài giới thiệu dịch vụ luật sư hình sự và hướng dẫn cách chọn luật sư hình sự. Quý khách hàng nếu có nhu cầu sử dụng dịch vụ luật sư hình sự của công ty chúng tôi hoặc có thắc mắc về chính sách dịch vụ luật sư của công ty vui lòng liên hệ hotline 098.301.9109 để được tư vấn và hỗ trợ kịp thời.

Luật Dragon nhận hỗ trợ “tư vấn” trực tuyến 24/24 qua các hình thức như sau:

  • Tư vấn pháp luật qua EMAIL: congtyluatdragon@gmail.com
  • Tư vấn pháp luật qua FACEBOOK: Fanpage Luật Dragon
  • CÔNG TY LUẬT DRAGON

    LUÔN ĐỒNG HÀNH CÙNG QUÝ KHÁCH!

    TRỤ SỞ CHÍNH CÔNG TY LUẬT DRAGON:

    Add: Phòng 14.6, Tòa nhà Vimeco, Lô 9E, Đường Phạm Hùng, Quận Cầu Giấy, Hà Nội.

    Tel: 1900. 599. 979

    VĂN PHÒNG ĐẠI DIỆN LUẬT SƯ TẠI QUẬN LONG BIÊN:

    Add: Số 24 ngách 29 Phố Trạm phường Long Biên, quận Long Biên, thành phố Hà Nội

    Tel : 1900. 599. 979

    VĂN PHÒNG LUẬT SƯ TẠI HẢI PHÒNG:

    Add: Số 102, Lô 14 đường Lê Hồng Phong, Phường Đằng Lâm,Quận Hải An, Hải Phòng.

    Tel : 1900. 599. 979

    VĂN PHÒNG LUẬT SƯ TẠI TP HCM:

    Tel : 1900. 599. 979

    =====================

    BAN GIÁM ĐỐC CÔNG TY LUẬT DRAGON:

    Luật Sư Nguyễn Minh Long

    Điện Thoại: 098.301.9109

    Email: dragonlawfirm@gmail.com

Quy trình giải quyết vụ án hình sự

Từ khóa: thuê luật sư vụ án hình sự,Giá thuê luật sư,Chi phí thuê luật sư vụ án hình sự,Có nên thuê luật sư,Chi phí thuê luật sư có được bồi thường,Hợp đồng thuê luật sư,Chi phí thuê luật sư bào chữa, chi phí thuê luật sư bào chữa

Luật sư bào chữa giỏi tại Hải Phòng

Xã hội càng phát triển, nghề luật sư càng có vai trò quan trọng. Hằng ngày, nhiều tranh chấp, kiện tụng phát sinh và luật sư phải đứng ra tranh đấu để bảo vệ lẽ phải, công lý.

Bảo vệ lẽ phải

Luật sư Nguyễn Minh Long ở Văn phòng luật sư Dragon (Chi nhánh Hải Phòng) đã có gần 10 năm gắn bó với nghề. Giống như nhiều đồng nghiệp khác, công việc trong ngày của anh khá bận rộn và luôn phải di chuyển. Từ việc xếp lịch gặp khách hàng, lịch làm việc tại tòa án, đi thu thập chứng cứ… đều được anh thực hiện một cách cẩn trọng. Nhiều khi các luật sư còn trở thành chuyên gia tâm lý giúp thân chủ và người nhà yên tâm, tin tưởng vào lẽ phải.

Luật sư Long cho biết: “Nhiệm vụ của chúng tôi là bảo vệ công lý và lẽ phải. Vì vậy, mỗi vụ việc đều phải được tìm hiểu một cách kỹ lưỡng, chính xác, mất nhiều thời gian, công sức. Chỉ cần một sai sót cũng có thể dẫn đến những hậu quả khó lường”.

Giữ tâm trong sáng

Luật sư Long chia sẻ, hơn 10 năm gần đây, xã hội, con người có nhiều thay đổi, phát sinh nhiều mâu thuẫn phức tạp. Các vụ án liên quan đến kinh tế, hình sự, tranh chấp đất đai, hôn nhân – gia đình xảy ra nhiều hơn, phức tạp hơn. Vì thế, công việc của giới luật sư cũng vất vả gấp nhiều lần. Tuy nhiên, anh quan niệm phải luôn giữ tâm trong sáng để mỗi vụ việc đều được xử lý chính xác, theo đúng pháp luật. Nhiều lúc, các luật sư còn trở thành chuyên gia tư vấn  miễn phí.

Năm 2012, luật sư Long nhận tư vấn thủ tục ly hôn cho một phụ nữ ngoài 50 tuổi ở Quận Hồng Bàng. Do người chồng làm thợ xây nên hay đi nhiều nơi, có quan hệ phức tạp, về nhà thường chửi mắng vợ con. Không chịu nổi tình cảnh này, người vợ quyết định ly hôn. Qua tiếp xúc và tìm hiểu câu chuyện, anh Phán nhận thấy vẫn có cơ hội cứu vãn cuộc hôn nhân này. Bằng vốn kinh nghiệm qua từng vụ án và đời sống thường ngày, anh phân tích, giảng giải để người phụ nữ kia hiểu được điều hơn, thiệt. Lúc đầu, người phụ nữ này không nghe mà cương quyết đưa chồng ra tòa. Tuy nhiên, sau nhiều lần tiếp xúc, động viên, phân giải, họ đã chữa lành được vết thương, bỏ qua những lỗi lầm để hàn gắn trở lại.

Một số người vẫn hay nghĩ luật sư là nghề có nhiều quan hệ, kiếm được nhiều tiền nhưng thực tế những khó khăn, vất vả chỉ có người trong nghề mới hiểu hết. Để có thể trở thành một luật sư phải trải qua một thời gian dài học tập và đào tạo. Theo quy định, ngoài tấm bằng cử nhân, luật sư phải qua lớp đào tạo kỹ năng hành nghề luật sư, thời gian tập sự và thi qua kỳ thi kết thúc tập sự. Thời gian này tối thiểu là 6 năm hoặc có thể kéo dài hơn. Có người theo đuổi cả chục năm mới trở thành một luật sư.

Luật sư Long cho biết: “Công việc vất vả lắm nhưng thu nhập của anh em luật sư cũng chỉ đủ sống. Nhiều khi gặp trường hợp khó khăn, người cao tuổi, gia đình chính sách, chúng tôi chỉ làm giúp chứ không nhận phí. Gặp người tốt, sau khi tư vấn hay hoàn tất vụ việc thì họ đến có lời cảm ơn. Nhưng cũng có trường hợp mình thấy vấn đề của họ khiếu nại là sai, phân tích để nhận ra lẽ phải thì họ phản ứng ra mặt, thậm chí còn có những lời nói không đúng mực. Dù vậy, chúng tôi vẫn luôn giữ vững cái tâm với nghề”.

Công việc vất vả nên không phải ai cũng gắn bó được với nghề. Vì thế, người trẻ thường ít chọn học luật và đầu tư thời gian, chất xám để trở thành luật sư. Hiện nay, Hải Phòng có hơn 100 luật sư đang hành nghề, trong đó có khoảng 30 người là người cao tuổi, đã nghỉ hưu. Chỉ có tình yêu nghề mới giúp họ gắn bó với nghề luật sư trong thời gian dài. Mặc dù khó khăn là thế nhưng các luật sư như anh Long  luôn tin rằng nghề luật sư sẽ có triển vọng trong tương lai vì góp phần bảo đảm công bằng xã hội.

Văn phòng luật sư Dragon Hải Phòng

Khi nào cần thuê luật sư bào chữa

Thuê luật sư là việc người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị buộc tội, bị can, bị cáo và người thân thích của họ là cha, mẹ, vợ, con, ông, bà… thuê luật sư bào chữa cho trường hợp của gia đình nhà mình

Vai trò của Luật sư, luật sư tham gia vụ án hình sự với vai trò là người bào chữa, khi thực hiện bào chữa cho người bị buộc tội, người bị tạm giữ, người bị tạm giam, bị can, bị cáo trong tất cả các giai đoạn từ Điều tra vụ án, khởi tố vụ án, Truy tố vụ án và xét xử vụ án, luật sư sẽ thực hiện các quyền bào chữa để bảo chữa cho các bị can, bị cáo.

Thuê luật sư bào chữa cho người bị bắt là trường hợp người bị tình nghi hay còn gọi là nghi can có thể bị bắt quả tang hoặc bị tạm giữ song bắt hoặc bị mời về làm việc tại trụ sở cơ quan điều tra song bắt, trong tường hợp này người bị bắt có quyền thuê luật sư để bào chữa cho mình. Việc luật sư tham gia bào chữa từ giai đoạn này là hết sức cần thiết vì tham gia ngay từ ban đầu sẽ bảo đảm được quyền của người bị bắt cũng như làm sáng tỏ các sự kiện khách quan của vụ án

Thuê luật sư bảo chữa cho bị can khi phạm tội Khi một ai đó có hành vi phạm tội đã bị cơ quan Cảnh sát điều tra, cơ quan Công an khởi tố vụ án và khởi tố bị can, lúc đó người bị khởi tố trở thành bị can và có quyền mời luật sư bào chữa cho mình để tham gia vào vụ án. Luật sư khi tham gia bào chữa cho bị can sẽ giúp đỡ bị can về mặt pháp luật, sử dụng các biện pháp cần thiết và hợp pháp để bảo vệ bị can. Quá trình bào chữa của luật sư cho bị can từ khi bị mời lên làm việc, khi bị khởi tố tại cơ quan Điều tra, khi bị Viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền truy tố bị can bằng Bản cáo trạng và cho đến khi Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử. nói như vậy không có nghĩa là luật sư sẽ chấm dứt tư cách bào chữa cho bị can mà tư cách của bị can được chuyển sang thành tư cách Bị cáo.

Thuê luật sư bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa: Khi một bị can hay người bị buộc tội bị Tòa án nhân dân có thẩm quyền có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì lúc đó được chuyển sang một tư cách mới là tư cách bị cáo, Luật sư người bào chữa tiếp tục bào chữa cho bị cáo trong toàn bộ quá trình xét xử vụ án ở giai đoạn sơ thẩm hoặc phúc thẩm nếu bị cáo có kháng cáo và tiếp tục mời luật sư bào chữa cho mình. Luật sư bào chữa cho bị cáo có những quyền và nghĩa vụ nhất định, tư vấn và hỗ trợ pháp lý cũng như trao đổi với bị cáo để sao cho bào chữa cho bị cáo được tốt nhất.

Thuê luật sư tham gia vụ án hình sự là trường hợp đã xác định một vụ án hình sự, vụ án có thể hình thành từ giai đoạn khởi tố vụ án, khởi tố bị can và tiến hành điều tra hoặc có thể vụ án đã được Viện kiểm sát có thẩm quyền tiến hành xem xét truy tố ra tòa án và cũng có thể vụ án đã được tòa án chuẩn bị đưa ra xét xử sơ thẩm hoặc xét xử phúc thẩm. Luật sư tham gia vào vụ án hình sự sẽ thực hiện các nhiệm vụ quyền hạn của người bào chữa để nghiên cứu hồ sơ và bào chữa cho người được bào chữa.

Thuê luật sư bảo vệ cho người bị hại trong vụ án hình sự: Trong vụ án hình sự liên quan đến thiệt hại luật sư sẽ tham gia bảo vệ quyền và lợi ích của người bị hại, tham gia và các giai đoạn tố tụng tại Cơ quan Điều tra, Công an, Viện Kiểm sát và Tòa án; sao chụp hồ sơ tài liệu, thu thập chứng cứ và đưa ra cũng như bảo vệ các yêu cầu về bồi thường thiệt hịa cho người bị hại. Trong quá trình tranh tụ tại Tòa án, Luật sư sẽ phát biểu quản điểm luận tội đối với các bị cáo đã gây ra cho bị hại; nếu vụ án cần phải kháng cáo luật sư sẽ giúp bị hại thực hiện việc kháng cáo bản án theo quy định.

Thuê luật sư bào chữa cho người chưa thành niên, người chưa thành niên khi phạm tội là người dưới 18 tuổi, theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự thì đây là những người đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (14 tuổi) nhưng chưa thành niên (dưới 18 tuổi) khi phạm tội thì bắt buộc phải có luật sư. Thông thường bố mẹ hoặc người đại diện hợp pháp hay người giám hộ sẽ thuê luật sư bào chữa. Trường hợp không thể có điều kiện thuê luật sư thì cơ quan tiến hành tố tụng sẽ yêu cầu Đoàn luật sư chỉ định luật sư bào chữa. Đây là quyền cơ bản của người dưới thành niên để có thể bào chữa cho hộ được tốt nhất.

Luật sư bào chữa để trả hồ sơ điều tra bổ sung là trường hợp luật sư tham gia bào chữa cho bị can, bị cáo trong vụ án hình sự và vào từng giai đoạn cụ thể có thể là giai đoạn truy tố tại Viện kiểm sát, Luật sư kiến nghị việc trả hồ sơ cho cơ quan Điều tra để tiến hành điều tra bổ sung hoặc sau khi Viện kiểm sát đã quyết định truy tố bằng Bản cáo trạng ra Tòa án có thẩm quyền thì Luật sư kiến nghị Thẩm phán thụ lý vụ án ra Quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung hoặc Tại phiên tòa luật sư bào chữa để Hội đồng xét xử trả hồ sơ điều tra bổ sung.

Giai đoạn mà luật sư có quyền tham gia theo quy định tại Bộ luật TTHS, Luật Luật sư và các văn bản pháp luật liên quan, cụ thể:

I. Giai đoạn tố tụng mà luật sư có thể tham gia

Theo quy định tại khoản 2 Điều 72 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 (BLTTHS) thì người bào chữa có thể là:

“a) Luật sư;

b) Người đại diện của người bị buộc tội;

c) Bào chữa viên nhân dân;

d) Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý.”

Bên cạnh đó, Điều 74 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định về thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng như sau:

“Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can.

Trường hợp bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ.

Trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.”

Căn cứ những quy định trên, luật sư có thể tham gia tố tụng để bào chữa cho em bạn khi em bạn hoặc gia đình bạn có giấy mời luật sư sau đó Luật sư sẽ tiến hành những thủ tục cần thiết để được cấp Giấy chứng nhận bào chữa theo quy định của BLTTHS và những văn bản có liên quan.

II. Quyền hạn của Luật sư (người bào chữa)

Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa được quy định cụ thể tại Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 như sau:

“1. Người bào chữa có quyền:

a) Gặp, hỏi người bị buộc tội;

b) Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can;

c) Có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này;

d) Được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này;

đ) Xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình, quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;

e) Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế;

g) Đề nghị tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này; đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

h) Thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

i) Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;

k) Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản;

l) Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa từ khi kết thúc điều tra;

m) Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa;

n) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

o) Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất theo quy định của Bộ luật này.

Bạn có thể tham khảo thêm nội dung tư vấn áp dụng văn bản pháp luật theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003:

I. Giai đoạn tố tụng mà luật sư có thể tham gia

Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) thì người bào chữa có thể là:

1.  Luật sư;

2.  Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;

3.  Bào chữa viên nhân dân.

Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 58 BLTTHS có quy định: Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can, Trong trường hợp bắt người theo quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.

Căn cứ những quy định trên, luật sư có thể tham gia tố tụng để bào chữa cho em bạn khi em bạn hoặc gia đình bạn có giấy mời luật sư sau đó Luật sư sẽ tiến hành những thủ tục cần thiết để được cấp Giấy chứng nhận bào chữa theo quy định của BLTTHS và những văn bản có liên quan.

II. Quyền hạn của Luật sư (người bào chữa)

Theo quy định tại khoản 2 Điều 58 BLTTHS thì Luật sư (người bào chữa) có quyền:

1.  Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;

2.  Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can;

3.  Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này;

4.  Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác;

5.  Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

6.  Gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam;

7.  Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật;

8.  Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà;

9.  Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

10. Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Thuê luật sư bào chữa hình sự ở Hà Nội

Gọi cho một luật sư chuyên hình sự tại Hà Nội : 1900. 599. 979

Bạn đã bị buộc tội về một tội ác mà bạn đã không phạm phải và tìm kiếm công lý nhanh chóng và không bị tổn thương trong khi duy trì danh dự và nhân phẩm của bạn? Hoặc, có lẽ bạn đã là nạn nhân của một tội ác và tìm kiếm sự trừng phạt hợp pháp đối với những người đã làm hại bạn hoặc gia đình bạn. Bạn thậm chí có thể tự mình phạm tội và mong muốn giải quyết tốt nhất có thể. Bất kể nguyên nhân hay động cơ, Văn phòng Luật sư Dragon sẽ tạo điều kiện cho công lý nhanh chóng và phù hợp cho các khách hàng tại Hà Nội và Hải Phòng của chúng tôi để họ nhận được phán quyết tốt nhất có thể.

Đó là, nếu bạn đã bị nhà nước buộc tội theo bộ luật hình sự, bắt buộc phải xuất hiện trước cơ quan quản lý hoặc muốn kháng cáo quyết định, Văn phòng Luật sư Dragon sẽ luôn cung cấp cho bạn sự hài lòng hoàn toàn. Hơn nữa, chúng tôi tính phí trên cơ sở lãi suất cố định để bạn nhận thức đầy đủ về các khoản chi tiêu trước khi chúng tôi thực hiện trường hợp của bạn. Bạn sẽ không bao giờ phải lo lắng về các cáo buộc ẩn hoặc những bất ngờ khó chịu khác trước và sau khi phán quyết được đưa ra.

Hơn nữa, Văn phòng Luật sư Dragon sẽ luôn bảo vệ bạn một cách trung thực và đạo đức. Chúng tôi sẽ sử dụng mọi phương tiện theo ý của chúng tôi để đảm bảo rằng công lý được đáp ứng và bạn sẽ nhận được phán quyết tốt nhất có thể, đưa ra bằng chứng. Văn phòng luật sư Dragon cũng sẽ tham khảo đầy đủ với bạn về các tùy chọn có sẵn và đề xuất lựa chọn tốt nhất cho nhu cầu duy nhất của bạn. Đó là, chúng tôi luôn đặt lợi ích tốt nhất của bạn lên hàng đầu và sẽ thực hiện các bước chủ động để vượt ra ngoài sự đại diện đơn thuần.

Ví dụ, các luật sư hình sự tại Hà Nội của chúng tôi được yêu cầu đăng ký vào các chương trình sáng kiến ​​giáo dục thường xuyên để họ cập nhật kiến thức hiểu biết hệ thống pháp lý – và tất cả các sắc thái của nó – một cách triệt để. Chúng tôi cũng đầu tư vào nghiên cứu và phát triển công nghệ để đảm bảo rằng kiến ​​thức về các đạo luật pháp lý của chúng tôi luôn cập nhật và chính xác.

Do đó, nếu bạn đã bị buộc tội hoặc là nạn nhân của tội phạm, bạn sẽ cần một luật sư pháp lý tốt nhất để đưa ra phán quyết mà bạn mong muốn. Các công tố viên và luật sư hình sự tận tâm, có kinh nghiệm và có trình độ học vấn cao của chúng tôi có một hồ sơ theo dõi thành công đã được chứng minh và có khả năng sẽ tạo điều kiện cho bản án mà bạn và gia đình bạn mong muốn. Hơn nữa, chúng tôi đã xử lý các vụ án hình sự từ rửa tiền đến giết người hàng loạt. Do đó, không có vụ án hình sự nào ở Hà Nội quá tầm thường hay khó khăn đối với các luật sư hình sự tại Văn phòng Luật sư Dragon.

Hãy cho chúng tôi về trường hợp hay vụ việc của bạn

Đại diện tư vấn trực tiếp của chúng tôi luôn sẵn sàng 24/7 để hỗ trợ bạn và có thể lên lịch tư vấn với chuyên gia luật của chúng tôi.

Thuê luật sư bào chữa cho người bị bắt

Thuê luật sư bào chữa cho người bị bắt là trường hợp người bị tình nghi hay còn gọi là nghi can có thể bị bắt quả tang hoặc bị tạm giữ song bắt hoặc bị mời về làm việc tại trụ sở cơ quan điều tra song bắt, trong tường hợp này người bị bắt có quyền thuê luật sư để bào chữa cho mình.

Người bị bắt tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt tạm giữa người bị bắt tạm giữ được nghe, nhận lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, quyết định phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp;

Người bị bắt tạm giữ trong trường hợp khẩn cấp có các quyền:

– Được biết lý do mình bị giữ;

– Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự;

– Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;

– Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

– Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tố tụng kiểm tra, đánh giá và các quyền khác

Người bị bắt tạm giữ có được quyền nhờ luật sư. Theo quy định thì người bị bắt tạm giữ có quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật sư bảo chữa cho mình. Nếu nhờ luật sư bào chữa họ có quyền yêu cầu cơ quan đang thụ lý vụ việc liên hệ luật sư để họ có thể nhờ luật sư bào chữa cho mình, ngoài ra họ cũng có các quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc giữ người, bắt người.

Người bị bắt theo quy định tại Điều 58 Bộ luật Tố tụng hình sự thì là bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc bắt theo quyết định truy nã. Khi bị bắt người bị bắt có các nghĩa vụ chấp hành lệnh bắt người và yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền bắt người theo quy định của pháp luật.

Người bị bắt khi bị bắt có quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật sư bào chữa và một số quyền cơ bản sau:

Được biết lý do mình bị giữ, bị bắt;
Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;
Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tố tụng kiểm tra, đánh giá;
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc giữ người, bắt người. Và một số quyền khác.
Khi bị tạm giữ có được thuê luật sư? Người bị tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ. Ngoài các quyền cơ bản được quy định tại Khoản 2 Điều 59 Bộ luật Tố tụng hình sự thì người bị tạm giữ có quyền tự bào chữa hoặc thuê luật sư bào chữa.

Thuê luật sư bào chữa tại Công ty luật Dragon. Vui lòng liên hệ: 1900.599.979

 

Khi chưa khởi tố mà nhận được giấy triệu tập của công an có nên thuê luật sư bào chữa

Tôi có giấy triệu tập của công an thành phố, liên quan đến tội trộm cắp xảy ra do bạn tôi làm đơn, mặc dù tôi khẳng định tôi không liên quan đến sự việc của bạn tôi mất trộm? mất bao nhiêu tiền? mất ở đâu ? như thế nào? bạn ấy làm đơn vu khống cho tôi.. Tôi bị công an gọi điện mời tôi, tôi vì không hiểu pháp luật nên đã ký hợp đồng thuê luật sư bào chữa bảo vệ cho tôi, đến lịch hẹn làm việc theo giấy triệu tập? Luật sư của tôi đi cùng tôi đến xuất trình tại công an điều tra như giấy giới thiệu, đơn mời luật sư bào chữa và thẻ luật sư, nhưng bên công an đã từ chối không cho luật sư bào chữa cho tôi tham gia với lý do, hiện nay chưa khởi tố vụ án, chưa khởi tố tôi, công an chỉ mời lên làm rõ sự việc, công an đề nghị tôi và luật sư bổ sung thêm hợp đồng dịch vụ pháp lý? Lúc đấy tôi thấy luật sư bảo tôi cứ làm việc với công an và luật sư bỏ ra về. Tôi rất hoang mang và đã bị sốc nên từ chối không làm việc với công an và xin hẹn buổi khác, tôi có nói với công an là phải có luật sư thì tôi mới làm việc sau đó tôi đi về. Luật sư của tôi không giải thích cho tôi biết lý do và ý kiến của cơ quan điều tra đúng hay sai? Nay tôi nhờ luật sư tư vấn ý kiến của công an như vậy có đúng không? luật sư bảo vệ cho tôi làm như vậy có đúng không? Tôi rất hoang mang khi tìm chọn một công ty luật có uy tín mà lại có một luật sư hành xử như vậy? Rất mong Công ty luật Dragon tư vấn gấp cho tôi.

Phúc đáp yêu cầu tư vấn pháp luật của anh/chị, đề nghị cho ý kiến về một số nội dung pháp lý liên quan đến việc: người bị kiến nghị khởi tố/bị tố giác có được mời Luật sư không, Luật sư Công ty luật Dragon có ý kiến như sau:

*) Đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác:

Theo như trình bày thì anh/chị đang bị tố giác về hành vi trộm cắp tài sản. Khoản 1 Điều 83 Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác là người được người bị tố giác nhờ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Luật sư là một trong những người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác (điểm a khoản 2 Điều 83 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015). Như vậy, anh/chị có quyền mời Luật sư để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình ngay từ khi bị tố giác (từ khi chưa có quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can).

Khoản 1 Điều 27 Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi bổ sung năm 2012) quy định: “Hoạt động tham gia tố tụng của luật sư phải tuân theo quy định của pháp luật về tố tụng và Luật này”.

Bộ Luật Tố tụng hình sự không quy định rõ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác phải xuất trình những giấy tờ gì khi làm việc với Cơ quan Cảnh sát điều tra. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm làm việc thực tế của Luật sư và quy định tại điểm a khoản 2 Điều 78 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì những giấy tờ Luật sư cần xuất trình khi làm việc với Cơ quan CSĐT là: Giấy giới thiệu của công ty luật cử luật sư đến cơ quan điều tra làm việc, Thẻ luật sư kèm theo bản sao có chứng thực và giấy yêu cầu đơn mời luật sư của người bị tố giác ( anh chị cũng như Luật sư không phải xuất trình Hợp đồng dịch vụ pháp lý).

Như vậy, việc công an từ chối không cho luật sư tham gia với lý do: hiện nay chưa khởi tố vụ án, chưa khởi tố bị can, công an chỉ mời lên làm rõ sự việc và đề nghị anh và luật sư bổ sung thêm hợp đồng dịch vụ pháp lý là vi phạm tố tụng.

*) Quyền của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác:

Khoản 3 Điều 83 Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 quy định: Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác có quyền:

  1. a) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
  2. b) Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
  3. c) Có mặt khi lấy lời khai người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố và nếu được Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên đồng ý thì được hỏi người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố. Sau mỗi lần lấy lời khai của người có thẩm quyền kết thúc thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có quyền hỏi người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố;
  4. d) Có mặt khi đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố;

đ) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Luật sư bào chữa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của anh/chị không đưa ra ý kiến nào và bỏ về khi bị công an từ chối là không thực hiện quyền của mình theo quy định trên. Không bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp tốt nhất cho khách hàng. Việc anh/chị từ chối không làm việc với công an, xin hẹn buổi khác và nói với công an là phải có luật sư bào chữa cho anh/chị thì anh/ chị mới làm việc với cơ quan điều tra là đúng với quy định của pháp luật.

Trên đây là quan điểm ý kiến của Thạc sĩ Luật sư Nguyễn Minh Long Giám đốc Công ty Luật Dragon – Đoàn Luật sư TP. Hà Nội về nội dung vụ viêcj trên.

Để biết thêm thông tin chi tiết bạn có thể liên hệ với Luật sư Hà Nội và Luật sư Hải Phòng theo địa chỉ dưới đây.

  1. Trụ sở chính Công ty Luật Dragon tại quận Cầu Giấy:  Phòng 6, Tầng 14, Tòa nhà VIMECO, Đường Phạm Hùng, Phường Trung Hòa, Quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội.
  2. VPĐD luật sư Công ty luật Dragon tại quận Long Biên: Số 24 Ngõ 29 Phố Trạm, phường Long Biên, quận Long Biên, Tp Hà Nội.
  3. Chi nhánh Công ty Luật Dragon tại Hải Phòng: Phòng 6 tầng 4 Tòa Nhà Khánh Hội, đường Lê Hồng Phong, quận Hồng Bàng, Tp Hải Phòng.

Công ty Luật Dragon cung cấp biểu phí và thù lao luật sư bào chữa tham khảo tại đây

Trân trọng!

CÔNG TY LUẬT DRAGON

Luật sư chuyên bào chữa vụ án hình sự

ĐIỀU LUẬT

ÁN LỆ