Luật sư tranh tụng tại tòa vụ án đơn phương ly hôn

44

Anh Ngô Đức Tuân sinh năm 1979 là kỹ sư Công ty xi măng Bỉm Sơn và chị Lê Thị Phương Lan sinh năm 1977 là giáo viên trường PTTH Bỉm Sơn kết hôn với nhau năm 2006, đăng ký kết hôn tại UBND phường Ba Đình, thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Có hai con chung với nhau là Ngô Bảo Khánh sinh năm 2007 và Ngô Quang Toàn sinh năm 2012. Hiện nay, cả hai đã sống ly thân với nhau được mấy tháng, do không còn tình cảm yêu thương với nhau và không thể sống chung nữa nên anh Tuân đã làm đơn khởi kiện về tranh chấp ly hôn vào ngày 21/3/2016 yêu cầu TAND thị xã Bỉm Sơn giải quyết về tình cảm và con cái. Ngày 8/4/2016 Tòa án Bỉm Sơn ra thông báo về việc thụ lý vu án. Sau đấy, Tòa án đã tiến hành hòa giải hai lần vào các ngày 27/4/2016 và 8/7/2016. Chị Lan đều có mong muốn đoàn tụ gia đình không muốn ly hôn làm ảnh hưởng đến 02 con còn nhỏ.

Ngày 11/7/2016, chị Lan làm đơn xin rút không đề nghị Tòa án giải quyết về phần tài sản chung vì tin rằng hai vợ chồng đã lập vi bằng xác nhận việc chia tài sản chung là ngôi nhà đang ở cho hai con. Tuy nhiên, sau đấy anh Tuân đã thay đổi ý kiến

Ngày 14/7/2016, Tòa án Bỉm Sơn ra quyết định đưa vụ án ra xét xử vào ngày 29/8/2016. Tại phiên tòa chị Lan và anh Tuân đề nghị đưa nội dung chia tài sản chung của vợ chồng vào giải quyết cùng vụ án ly hôn được HĐXX chấp thuận và đưa vào bản án. Hiện nay, thẩm phán Ngô Xuân Sang là người thụ lý giải quyết vụ án cho rằng việc các đương sự yêu cầu chia tài sản chung là vượt quá phạm vi khởi kiện nên không xem xét và giải quyết riêng thành vụ án khác.

CĂN CỨ PHÁP LÝ

  1. Luật Dân sự 2005;
  2. Luật Tố tụng dân sự 2015;
  3. Luật Hôn nhân gia đình 2014;
  4. Luật Hình sự năm 2009;
  5. Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP TANDTC hướng dẫn một số điều luật HNGĐ;
  6. Thông tư số 01/2001/ TTLT/BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC.

 

Về yêu cầu khởi kiện ly hôn của anh Ngô Đức Tuân

Thứ nhất, yêu cầu về giải quyết tình cảm cho ly hôn

Trong nội dung “Đơn khởi kiện” anh Ngô Đức Tuân nêu lý do ly hôn như sau:

“Trước khi kết hôn, chúng tôi đã có sự cãi vã, xung đột do bất đồng về quan điểm sống, vấn đề chênh lệch tuổi tác nên suy nghĩ rất khác nhau…hiện tại tuy sống chung nhà nhưng  chúng tôi đã ly thân từ mấy tháng nay. Chúng tôi không còn tình cảm nữa và không thể tiếp tục chung sống”.

Với những lý lẽ và lý do này để yêu cầu Tòa giải quyết ly hôn, Chúng tôi cho rằng không đủ cơ sở và căn cứ để giải quyết việc “Đơn phương ly hôn” của anh Tuân vì những lẽ sau:

Một là, Biên bản hòa giải ngày 27/4/2016, Chị Lan trình bày:

“Từ ngày kết hôn cho đến nay tôi xét thấy cuộc sống chung của tôi và anh Tuân vẫn rất hạnh phúc, chỉ xảy ra những mâu thuẫn nhỏ. Về tình cảm của tôi rất yêu thương chồng con mong muốn gia đình hạnh phúc và đoàn tụ gia đình nên tôi không muốn ly hôn và xin được đoàn tụ gia đình”.

Trong phiên hòa giải ngày 8/7/2016 (lần 2), chị Lan có ý kiến thêm:

“Theo tôi những mâu thuẫn trong gia đình chưa đến mức trầm trọng. tôi rất yêu thương chồng con và thấy vẫn có thể sống hạnh phúc chung được. Nguyên nhân anh Tuân kiên quyết xin ly hôn tôi là vì có người phụ nữ thứ 3 xuất hiện, anh Tuân có mối quan hệ ngoại tình với người phụ nữ ấy và không có trách nhiệm với gia đình”

Như vậy theo lời trình bày của chị Lan thì về mặt tình cảm chị Lan vẫn yêu thương chồng con, mong đoàn tụ  gia đình không muốn ly hôn sẽ làm ảnh hưởng đến 02 con còn nhỏ vì ly hôn sẽ dẫn đến cảnh chia li, đổ vỡ, các con sẽ là người chịu thiệt thòi nhiều nhất do thiếu sự chăm sóc, giáo dục của bố hoặc mẹ.  không những thế còn gây ảnh hưởng về mặt tâm lý, tinh thần của các cháu trong sinh hoạt, học tập. Lý do anh Tuân đưa ra là mâu thuẫn giữa hai vợ chồng đã trở lên trầm trọng là không chính đáng. Anh Tuân cố tình cho rằng không còn tình cảm với vợ chẳng qua anh đã có quan hệ với một người phụ nữ khác nên về hắt hủi vợ con, đối xử bất công với chị Lan nhằm mục đích để chị chán nản, không cứu vãn được để đồng thuận ly dị. khi đó anh Tuân sẽ hợp thức hóa về mặt pháp lý để sống chung công khai với người mình  đang quan hệ bất chính. Đây là thủ đoạn, hành vi ngược đãi trái pháp luật và đạo đức xã hội, trái luân thường đạo lý đáng bị lên án.

Hai là, trong bản tự khai ngày 12/9/2016, chi Lan có nêu về việc chồng là Ngô Đức Tuân như sau:

“Chồng tôi vì ngoại tình có con riêng và muốn hính thức nhận đứa con riêng nên quyết tâm đòi ly hôn, trước cả gia đình chồng tôi đã thừa nhận có 04 con (Cô Hương đang mang bầu đứa thứ 2) nên không thể dừng lại được, xin bố mẹ được ly hôn. Cô Hương sinh đứa con đầu vào ngày 25/3/2015 đặt tên là Phạm Ngô Quang Tuấn…trong sổ cá nhân chồng tôi còn ghi rõ tên từng đứa con và tên cho đứa thứ 4 là Ngô Quang Minh Kiệt”.

Qua lời khai trên cho thấy anh Tuân đã có quan hệ ngoại tình và có con chung chính thức với chị Phạm Thị Thu Hương là Phạm Ngô Quang Tuấn trong khi hôn nhân giữa anh và chị Lan vẫn tồn tại. Vì lẽ đó mà anh đưa ra những lý do như không còn tình cảm với chị Lan, mâu thuẫn trầm trọng, sống ly thân mấy tháng với vợ để làm căn cứ Tòa chấp thuận yêu cầu giải quyết cho ly hôn đơn phương. Về việc này chúng tôi có ý kiến như sau:

Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 quy định:

Điều 56. Ly hôn theo yêu cầu của một bên

“1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”.

Điểm a2 mục 8 Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP TANDTC ngày 25/12/2000 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân gia đình.

“a.2. Để có cơ sở nhận định đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài được, thì phải căn cứ vào tình trạng hiện tại của vợ chồng đã đến mức trầm trọng như hướng dẫn tại điểm a.1 mục 8 này. Nếu thực tế cho thấy đã được nhắc nhở, hoà giải nhiều lần, nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình hoặc vẫn tiếp tục sống ly thân, bỏ mặc nhau hoặc vẫn tiếp tục có hành vi ngược đãi hành hạ, xúc phạm nhau, thì có căn cứ để nhận định rằng đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài được”.

Với những hướng dẫn nêu trên cho thấy Tòa án chỉ cho ly hôn theo yêu cầu của một bên khi hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.

Tuy nhiên, như trên chúng tôi đã phân tích thì những lý do anh Tuân đưa ra chỉ là từ một phía, còn thực tế chị Lan vẫn vì con cái và tình cảm với chồng, việc anh  Tuân có quan hệ ngoại tình xuất phát từ bản tính lăng nhăng, không kiểm soát, làm chủ bản thân. Do đó, mà anh Tuân đang vướng vào vòng tình ái với chị Phạm Thị Thu Hương buộc phải lựa chọn giữa vợ và người tình, lại bị xúi giục và gây áp lực nên buộc phải làm đơn ly hôn với chị Lan để sống chung hợp pháp với chị Hương. Anh Tuân nói đã ly thân với vợ mấy tháng nhưng thực chất vẫn sống chung cùng nhà với chị Lan, cả hai chỉ không hỏi thăm nhau. Bởi thế, chị Lê Thị Phương Lan không có lỗi trong chuyện tình cảm vợ chông này mà đáng thương và cần sự chia sẻ, thông cảm bảo vệ của pháp luật hơn.

Thứ 2, Về yêu cầu nuôi con

Một là, Cũng trong nội dung «Đơn khởi kiện» anh Tuân nêu : «Tôi có nguyện vọng tha thiết được nuôi cả 02 con của tôi». Tuy nhiên trong «Bản tự khai » ngày 12/4/2016 anh lại nói rằng: «Tôi đồng ý để vợ nuôi 02 con và phối hợp để chăm sóc các con thật tốt. Các con sẽ ở với mẹ để các con được gần nhau không bị chia rẽ tình cảm. tôi sẽ chu cấp cho các con 3 triệu đồng/tháng».

Như vậy giữa nội dung khởi kiện và tự khai của anh Ngô Đức Tuân đã có sự mâu thuẫn với nhau. Về mặt nhận thức và ý trí là anh hiểu rõ việc để các con sống chung với mẹ là tốt nhất nhưng anh vẫn muốn nuôi cả hai chỉ nhằm thể hiện trước Tòa là người cha có trách nhiệm với con cái.

Hai là, Trong buổi hòa giải ngày 8/7/2016, anh Tuân cũng khẳng định :

«Ly hôn tôi có nguyện vọng để chị Lan nuôi dưỡng chăm sóc cả 02 cháu Khánh và Toàn để chị em được gần nhau»

Mặt khác trong «Giấy đề nghị» ngày 27/6/2016, cháu Ngô Bảo Khánh là con gái đầu lòng sinh năm 2007 đã có nguyện vọng như sau: “Cháu có nguyện vọng được ở với mẹ Lan, cháu xin Tòa án xem xét nguyện vọng của cháu», theo quy định của Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 tại Điều 81 khoản 2 «nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con». Như vậy, cháu Khánh đã 09 tuổi có nguyện vọng ở với mẹ là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật.

Ba là, Đối với cháu Ngô Quang Toàn sinh năm 2012 năm nay 04 tuổi, nhưng anh Tuân là người có quan hệ và con riêng với chị Phạm Thị Thu Hương trái pháp luật, nếu để cháu Toàn ở với bố sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển về mặt tình cảm, tinh thần, nhân cách của cháu. Vì vậy, để cháu Toàn và Khánh sinh sống với mẹ là chị Lê Thị Phương Lan là hợp lý nhất. Chị Lan là người phụ nữ yêu thương và chăm sóc con cái tốt hơn người đàn ông, hai cháu ở với nhau tình cảm chị em sẽ không bị xa cách.

 Dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự

Trong Đơn trình báo ngày___/___/2016 của chị Lan có nội dung như sau:

“Sau một thời gian dài đấu tranh tư tưởng, tôi đã cùng anh chị em ruột lên nhà cô Hương vào lúc 23h30 ngày 19/3/2016 thì bắt gặp chồng tôi đang ngủ trong đó. Công an khu vực cùng các bác tổ trưởng khu phố, an ninh khu phố và phụ nữ khu phố đã chứng kiến và lập biên bản vi phạm..vì việc ngoại tình có con riêng mà chồng tôi đang tâm phá bỏ gia đình, bỏ các con tôi bơ vơ không cha, không có nhà để ở. Tôi yêu chồng, thương con nên không thể đang tâm nhìn gia đình tôi bị ly tán, các con tôi chịu nhiều thiệt thòi về tinh thần lẫn vật chất”

Dẫn chứng từ nội dung trình bày trên của chị Lan cho thấy việc anh Tuân sống trong nhà chị Phạm Thị Thu Hương là có thật. Dẫn đến hệ quả là có con chung với nhau việc anh Tuân khởi kiện ly hôn chỉ nhằm mục đích để sống chung với chị Hương vì hôn nhân giữa anh ta với chị Lan vẫn tồn tại. Khi chưa ly dị được, nếu vẫn ăn ở, sinh hoạt với chị Hương thì Tuân lo sợ sẽ bị xử lý về hành vi vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng.

Như vậy căn cứ vào của Luật hình sự năm 2009 quy định tại Điều 147 về tội “Vi phạm chế độ một vợ, một chồng” đối chiếu với vi phạm của anh Tuân và chị Hương thì cả hai đã hội tụ đầy đủ yếu tố cấu thành tội phạm theo điều luật nêu trên. Điều văn của điều luật quy định cụ thể như sau:

“1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm”.

  1. Chủ thể: cả hai đều là người đã có gia đình, chị Hương là người đã ly hôn với chồng.
  2. Khách thể

Đối tượng của tội phạm là chế độ một vợ, một chồng – một trong những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình mà Luật hôn nhân và gia đình quy định

  1. Mặt khách quan của tội phạm

– Hành vi: Ngô Đức Tuân đang có vợ và Phạm Thị Thu Hương có chồng nhưng đã ly hôn. Tuy nhiên cả hai vẫn chung sống như vợ chồng với nhau và có con chung.

  1. Mặt chủ quan của tội phạm

– Cả hai đều thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp

– Mục đích: muốn sống như vợ chồng trái pháp luật

Để giải thích rõ về điều này Thông tư 01/2001/ TTLT/BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC đã cụ thể tại mục 3 theo đó việc chung sống phải công khai hoặc công khai nhưng chung sống như 1 gia đình. Việc chung sống như vợ chồng thường được chứng minh bằng có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng…. và hành vi này phải gây hậu quả nghiêm trọng như dẫn đến ly hôn , vợ hoặc chồng, con vì thế mà tự sát …hoặc đã bị xử phạt về hành chính về hành vi phạm tội này.

Từ những phân tích trên cho thấy: Việc anh Ngô Đức Tuân và chị Phạm Thị Thu Hương chung sống với nhau (đã từng bị lập biên bản vụ việc mất trật tự khu phố vào ngày 19/3/2016), tổ dân khu phố 2, phường Ba Đình, thị xã Bỉm Sơn đều biết và kết quả có con chung với nhau là Phạm Ngô Quang Tuấn đã chứng minh cho việc họ sống chung trái pháp luật với nhau. Điều đó nói lên việc chị Lan và anh Tuân không hề có mâu thuẫn, tình trạng hôn nhân không trầm trọng như trong nội dung Đơn khởi kiên của anh Tuân. Nguyên nhân chính xuất phát từ việc anh Tuân vi phạm ngoại tình rồi lấy lý do không hợp nhau để ly hôn.

 Về yêu cầu chia tài sản chung

Thứ nhất, thẩm quyền giải quyết của Tòa án, nhập tách vụ án

“Điều 28. Những tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án

  1. Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn; chia tài sản sau khi ly hôn.
  2. Tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.

Điều 42. Nhập hoặc tách vụ án

  1. Tòa án nhập hai hoặc nhiều vụ án mà Tòa án đó đã thụ lý riêng biệt thành một vụ án để giải quyết nếu việc nhập và việc giải quyết trong cùng một vụ án bảo đảm đúng pháp luật”.

Các quy định trên cho thấy, việc chia tài sản chung của vợ chồng tôi trong thời kỳ hôn nhân thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Được giải quyết cùng với việc ly hôn, nuôi con, cấp dưỡng, công nợ chung của vợ chồng. Vì vậy, được nhập vào giải quyết cùng vụ án “Đơn phương ly hôn” do anh Ngô Đức Tuân khởi kiện là hoàn toàn hợp lý, không phải vượt quá phạm vi khởi kiện như thẩm phán Ngô Xuân Sang nói.

Hơn nữa, nó còn làm cho vợ chồng chị Lan và Tòa tránh mất nhiều thời gian, công sức khi phải tách riêng thành 02 vụ việc.

Thứ 2, căn cứ vào luật Dân sự năm 2005 quy định tại Điều 219 như sau:

“Điều 219. Sở hữu chung của vợ chồng

….

  1. Tài sản chung của vợ chồng có thể phân chia theo thoả thuận hoặc theo quyết định của Toà án”.

Như vậy, khi nguyên đơn và bị đơn không thỏa thuận được với nhau về việc chia tài sản chung cần được Tòa giải quyết  làm cơ sở để mỗi người được bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của mình đó là tài sản thuộc sở hữu chung trong thời kỳ hôn nhân thì thẩm phán lại tránh né không giải quyết. Phải chăng, ông Ngô Xuân Sang đang cố tình làm sai luật đưa ra xử ép và giải quyết nhanh vụ án nhằm tạo thuận lợi cho anh Ngô Đức Tuân ly hôn với chị Lan vì anh Tuân đang sống trái pháp luật và có con riêng với chị Phạm Thị Thu Hương ???.

Thứ 3, Căn cứ vào Luật Hôn nhân gia đình năm 2014

“Điều 38. Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

  1. Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung, trừ trường hợp quy định tại Điều 42 của Luật này; nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.
  2. Thỏa thuận về việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản. Văn bản này được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật.
  3. Trong trường hợp vợ, chồng có yêu cầu thì Tòa án giải quyết việc chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại Điều 59 của Luật này.

Điều 59. Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn

  1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này.

Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết.

  1. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:
  2. a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
  3. b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
  4. c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập”.

Theo quy định trên và đối chiếu với trường hợp của vợ chồng chị Lan hiện nay không thỏa thuận được về việc chia tài sản chung thì theo yêu cầu của chị Lan hoặc anh Tuân hay cả hai vợ chồng  họ Tòa án sẽ giải quyết (khoản 1 Điều 38; khoản 1 Điều 59) và việc chia tài sản chung của vợ chồng sẽ được chia đôi nhưng tính đến các yếu tố theo quy định tại khoản 2 Điều 59 như trên.

Như vậy, về cơ sở pháp lý đối với việc yêu cầu chia tài sản chung của các đương sự giải quyết trong cùng vụ án ly hôn này là hoàn toàn đúng pháp luật và phù hợp với thực tế của vợ chồng chị Lan. Đưa việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân vào cùng vụ án ly hôn không những tuân thủ đúng pháp luật đã quy định mà còn bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho các đương sự được giải quyết trong cùng vụ án một cách khách quan toàn diện, đầy đủ. Đồng thời, chánh cho Tòa giải quyết nhiều lần và mệt mỏi về công sức, thời gian của các bên.

  1. Đề nghị của luật sư:

Từ những nhận định, phân tích trên kết luận: Những lý do ly hôn của anh Ngô Đức Tuân đưa ra là không chính đáng, việc «Đơn phương ly hôn» của anh Tuân chỉ nhằm mục đích hợp thức hóa tiến tới sống chung với người phụ nữ khác là trái với những chuẩn mực đạo đức xã hội, đạo lý làm người, những yêu cầu giải quyết về ly hôn và con cái trong «Đơn Khởi kiện» không phù hợp với các quy định của pháp luật.

Vì vậy, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người phụ nữ như chị Lê Thị Phương Lan, vì sự phát triển về tình cảm, thể chất cần có sự chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng đầy đủ của bố mẹ của hai cháu Ngô Bảo Khánh và Ngô Quang Toàn, Luật sư đề nghị cụ thể như sau:

  • Đề nghị HĐXX áp dụng điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015 không chấp thuận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là anh Ngô Đức Tuân;
  • Để tránh bỏ lọt tội phạm đề nghị HĐXX áp dụng các quy định tại Điều 13 về “Trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự”; Điều 104 khoản 1 Bộ Luật Tố tụng hình sự 2003 để quyết định khởi tố anh Ngô Đức Tuân và chị Phạm Thị Thu Hương theo tội danh “vi phạm chế độ một vợ một chồng” như chúng tôi đã phân tích ở trên:

“Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra”.

Chúng tôi tin tưởng rằng HĐXX sẽ ra một bản án công minh, đúng pháp luật!

Xin chân thành cảm ơn HĐXX đã lắng nghe!

Luật sư :  Nguyễn Minh Long, Nguyễn Trung Tiệp

========================================================

ĐOÀN LUẬT SƯ HÀ NỘI

CÔNG TY LUẬT DRAGON

Giám đốc - Thạc sĩ Luật sư:  Nguyễn Minh Long Công ty luật chuyên:
Hình sự - Thu hồi nợ - Doanh nghiệp – Đất Đai – Trọng tài thương mại – Hôn nhân và Gia đình.
Văn phòng luật sư quận Cầu Giấy:  Phòng 6 tầng 14 tòa nhà VIMECO đường Phạm Hùng, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
Văn phòng luật sư quận Long Biên: Số 24 ngõ 29 Phố Trạm, Phường Long Biên, Quận Long Biên, Hà Nội
Điện thoại: 1900 599 979 / 098.301.9109
Email: dragonlawfirm@gmail.com
Hệ thống Website:
www.vanphongluatsu.com.vn
www.congtyluatdragon.com
www.luatsubaochua.vn
www.dragonlaw.vn
#luatsubaochua #luatsutranhtung #luatsuhinhsu #luatsudatdai