Thông qua công tác kiểm sát giải quyết phúc thẩm các vụ án hành chính, vụ việc kinh doanh thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre (Phòng 10) thông báo rút kinh nghiệm đối với vụ việc như sau:
I. NỘI DUNG VỤ ÁN
* Nguyên đơn ông Phạm Văn Ní trình bày: Ngày 02/01/2014, ông Ní và ông Hồ Đại Nghĩa đại diện Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Cà Mau (Công ty) ký hợp đồng kinh tế số 02/HĐKT-2014. Theo hợp đồng, ông Ní cung cấp cho Công ty cửa đi, cửa sổ để thi công Trường Trung học cơ sở Mỹ Nhơn (Trường Mỹ Nhơn), huyện Ba Tri với số lượng 632,23 m2, đơn giá là 1.060.000 đồng/m2, giá trị hợp đồng là 670.163.800 đồng, thời gian thực hiện hợp đồng từ ngày ký kết hợp đồng đến hết tháng 12/2015, thời hạn thanh toán là khi ông Ní cung cấp khối lượng 50% khuôn bao và cửa thì Công ty thanh toán 70% khối lượng.
Sau khi ký hợp đồng, ông Ní và ông Nghĩa ký tiếp một hợp đồng khác cũng số 02/HĐKT-2014 không ghi ngày tháng năm 2014. Theo hợp đồng ký lần 2, ông Ní cung cấp cho Công ty cửa đi, cửa sổ để thi công Trường Mỹ Nhơn với số lượng 30,24 m2, đơn giá là 1.400.000 đồng/m2, giá trị hợp đồng là 42.336.000 đồng, thời gian thực hiện hợp đồng là từ ngày ký kết hợp đồng đến hết tháng 12/2015, thời hạn thanh toán là khi ông Ní cung cấp khối lượng 50% khuôn bao và cửa thì Công ty thanh toán 70% khối lượng.
Năm 2016, ông Ní ký tiếp hợp đồng kinh tế số 03/HĐKT-2016 với Công ty nhưng ông Nghĩa đã chết nên ông Lưu Văn Húa đại diện ký. Theo hợp đồng, ông Ní cung cấp cho Công ty cửa đi, cửa sổ với số lượng 7,2 m2, đơn giá là 1.400.000 đồng/m2, thành tiền là 10.080.000 đồng, phát sinh nẹp cửa là 16.000.000 đồng; khe cửa là 4.000.000 đồng, đổi ổ khóa Trung Quốc sang Việt Tiệp là 2.250.000 đồng, thời gian thực hiện hợp đồng là từ ngày ký hợp đồng đến hết tháng 5/2016, giá trị hợp đồng là 32.330.000 đồng. Tổng giá trị của 03 hợp đồng là 744.829.800 đồng.
Sau khi ký hợp đồng, ông Ní thực hiện đúng theo nội dung thỏa thuận, giao đầy đủ, đúng số lượng, chất lượng cửa cho Công ty. Khi giao cửa thì ông Ní và Công ty không có lập biên bản giao nhận mà chỉ có người của Công ty kiểm tra và nhận. Ông Ní đã hoàn thành hợp đồng với Công ty theo đúng thời hạn ghi trong hợp đồng là tháng 5/2016. Công ty chỉ thanh toán cho ông Ní ba lần tiền, lần 01 vào ngày 08/6/2015 số tiền 209.752.000 đồng; lần 02 vào ngày 29/9/2015 số tiền 254.400.000 đồng; lần 03 vào ngày 17/01/2019 ông Lưu Văn Húa có trả cho ông Ní số tiền 100.000.000 đồng. Tổng cộng 03 lần trả số tiền là 564.152.000 đồng. Sau khi hoàn thành việc giao cửa thì ông Ní và Công ty không có lập biên bản đối chiếu công nợ và hoàn thành hợp đồng.
Ông Hồ Đại Nghĩa (chết) và ông Lưu Văn Húa là nhân viên của Công ty đã ký hợp đồng với ông Ní nên Công ty phải có trách nhiệm thanh toán cho Ní số tiền mua cửa mà ông Ní đã giao cho Công ty. Do đó, ông Ní yêu cầu Công ty thanh toán số tiền mua cửa còn nợ là 180.677.800 đồng, không yêu cầu tính lãi đối với số tiền này.
Bị đơn Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Cà Mau trình bày: Sau khi trúng thầu công trình Trường Mỹ Nhơn, Công ty lập hợp đồng giao khoán cho Đội xây dựng số 16 trực thuộc Công ty do ông Húa làm Đội trưởng với giá trị 15.274.661.000 đồng. Theo hợp đồng giao khoán, Công ty giao cho Đội xây dựng 16 tự cung cấp, bảo quản toàn bộ nguyên vật liệu theo khối lượng, tiến độ công trình theo quy cách, chủng loại, đúng chất lượng theo thiết kế, dự toán giao thầu, dự toán trúng thầu, chịu trách nhiệm bảo hành công trình, nếu có hư hỏng trong thời gian bảo hành được cơ quan chức năng kết luận do khâu thi công thì Đội xây dựng phải chịu mọi chi phí sửa chữa.
Về tài chính, Công ty giao khoán cho Đội xây dựng toàn bộ chi phí và tự chịu trách nhiệm việc mua sắm thiết bị, vật tư xây dựng công trình. Sau khi ký hợp đồng giao khoán, Công ty đã chuyển tiền mặt và chuyển tiền thanh toán mua vật tư theo yêu cầu của Đội xây dựng 16 số tiền là 15.274.661.000 đồng. Nguyên đơn chỉ căn cứ vào hợp đồng kinh tế số 02/HĐKT-2014 ngày 02/01/2014; hợp đồng kinh tế số 02/HĐKT-2014 không ngày tháng năm 2014 được ký kết giữa ông Ní với ông Nghĩa; hợp đồng kinh tế số 03/HĐKT-2016 không ngày tháng năm 2016 chỉ có ông Ní ký tên, trong khi ông Nghĩa không phải là nhân viên của Công ty, Công ty cũng không có ủy quyền cho ông Nghĩa đại diện Công ty ký kết hợp đồng với ông Ní. Đối với hợp đồng kinh tế số 03/HĐKT-2016 không ngày tháng năm 2016 chỉ có ông Ní ký tên không có ông Húa ký tên mặc dù ông Húa là Đội trưởng đội xây dựng. Trên tất cả các hợp đồng mà nguyên đơn cung cấp đều không có con dấu của Công ty và cũng như việc Công ty ủy quyền đề ký hợp đồng với ông Ní.
Ngoài ra, công trình Trường Mỹ Nhơn đã hoàn thành vào ngày 18/3/2016 ký nghiệm thu với đại diện chủ đầu tư Ban Quản lý dự án Ba Tri nhưng 15 hóa đơn bán hàng của ông Ní cung cấp để khởi kiện vào tháng 01/2017 là sau khi công trình đã hoàn thành gần 01 năm. Hơn nữa các hóa đơn này là do ông Ní tự xuất và cũng không có giao cho Công ty. Công ty chuyển khoản cho ông Ní số tiền 464.152.000 đồng là do ông Lưu Văn Húa làm đơn xin vay tiền từ Công ty để thanh toán và yêu cầu chuyển khoản, chứ Công ty không biết ông Ní là ai. Công ty đã chi trả đầy đủ tiền mua vật tư. Năm 2017 ông Ní đòi nợ ông Húa và ông Húa có chuyển cho ông Ní số tiền 100.000.000 đồng.
Do đó, Công ty không đồng ý yêu cầu khởi kiện của ông Ní về yêu cầu trả số tiền là 180.677.800 đồng.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lưu Văn Húa trình bày: Thống nhất lời trình bày của bị đơn. Giữa ông và ông Nghĩa có văn bản thỏa thuận ông Nghĩa có trách nhiệm quản lý nhân công và vật tư trong thời gian ông vắng mặt, việc ông Nghĩa ký kết hợp đồng số 02/HĐKT-2014 ngày 02/01/2014 ông có biết, hợp đồng số 03/HĐKT ông không biết và không có ký kết với ông Ní. Ông Ní là người trực tiếp giao cửa để thi công công trình Trường Mỹ Nhơn. Khi ông Ní giao cửa không có biên bản bàn giao và kiểm tra chất lượng. Phía Công ty là người trực tiếp đứng ra thanh toán chi phí vật tư, trang thiết bị. Đối với số tiền cửa mà Công ty thanh toán dựa trên các hóa đơn, chứng từ do Đội xây dựng chuyển về. Đối với yêu cầu khởi kiện của ông Ní với Công ty không liên quan đến ông, do trách nhiệm thanh toán này thuộc về ông Nghĩa.
Bản án số 02/2019/KDTM-ST ngày 11/6/2019 của Tòa án nhân dân huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, quyết định: Bác yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Văn Ní về việc yêu cầu Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Cà Mau thanh toán số tiền mua bán hàng hóa là 180.677.800 đồng.
Ngày 25/6/2019, ông Phạm Văn Ní kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm yêu cầu cấp phúc thẩm xem xét giải quyết lại vụ án.
Ngày 25/6/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Tri ban hành Quyết định số 06/QĐKNPT-VKS-KDTM kháng nghị phúc thẩm theo hướng đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre hủy bản án sơ thẩm và giao hồ sơ về cấp sơ thẩm giải quyết lại theo thủ tục chung.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận kháng cáo của ông Ní; chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Tri; hủy bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Ba Tri và giao hồ sơ về cấp sơ thẩm giải quyết lại theo thủ tục chung.
Bản án phúc thẩm số 07/2019/KDTM-PT ngày 22/10/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre quyết định như đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh.
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN RÚT KINH NGHIỆM
1. Về quan hệ tranh chấp
Khi ký kết các hợp đồng kinh tế giữa ông Phạm Văn Ní với ông Nghĩa (đại diện đội thi công) thì ông Ní không có đăng ký kinh doanh, Đội xây dựng số 16 trực thuộc Công ty do ông Húa làm Đội trưởng cũng không có đăng ký kinh doanh. Căn cứ Khoản 1, Điều 30 BLTTDS thì tranh chấp kinh doanh thương mại là tranh chấp giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận. Như vậy, trong vụ án này cả hai bên tham gia ký kết hợp đồng đều không có đăng ký kinh doanh nên đây là tranh chấp dân sự, Tòa án cấp sơ thẩm xác định đây là vụ án kinh doanh thương mại là không đúng quan hệ tranh chấp.
2. Về nội dung
Cấp sơ thẩm cho rằng các hợp đồng kinh được ký kết giữa ông Ní với ông Hồ Đại Nghĩa, ông Lưu Văn Húa là không có giá trị vì không có con dấu của Công ty; trong hợp đồng kinh tế số 03 ông Húa không có ký tên; các hóa đơn do ông Ní cung cấp là sau gần 01 năm khi công trình đã được nghiệm thu và hai hợp đồng kinh tế sau ông Ní không làm đúng theo quy cách của công trình. Do đó, Cấp sơ thẩm tuyên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Ní.
Căn cứ vào văn bản ghi ý kiến ngày 17/8/2018 của ông Lưu Văn Húa khi thi công Trường Mỹ Nhơn thì giữa ông và ông Hồ Đại Nghĩa có thỏa thuận ông Nghĩa có trách nhiệm quản lý nhân công và vật tư trong thời gian ông vắng mặt, việc ông Nghĩa ký kết hợp đồng số 02/HĐKT-2014 ngày 02/01/2014 ông có biết việc này. Ông xác định ông Ní là người trực tiếp giao cửa thi công Trường Mỹ Nhơn. Trong quá trình thi công, phía Công ty là người trực tiếp đứng ra thanh toán chi phí vật tư, trang thiết bị để xây dựng công trình, đối với tiền mua cửa cũng do Công ty thanh toán dựa trên hóa đơn, chứng từ do Đội xây dựng chuyển về. Như vậy, có căn cứ xác định ông Ní là người trực tiếp cung cấp các loại cửa để thi công Trường Mỹ Nhơn.
Công ty cho rằng không có ký hợp đồng để ông Ní cung cấp cửa thi công Trường Mỹ Nhơn, không có ủy quyền cho ông Nghĩa đại diện Công ty ký kết hợp đồng, do ông Nghĩa không phải là nhân viên của Công ty nên việc ông Nghĩa ký các hợp đồng với ông Ní không liên quan gì nhưng Công ty lại sử dụng các loại cửa do ông Ní cung cấp dựa trên các hợp đồng đã ký với ông Nghĩa để thi công Trường Mỹ Nhơn là mâu thuẫn với nhau; Công ty xác nhận không có ký hợp đồng với ông Ní nhưng Công ty đã chuyển khoản hai lần cho ông Ní với số tiền 464.152.000 đồng như vậy các khoản tiền Công ty chuyển khoản cho ông Ní với mục đích gì? căn cứ để Công ty chi trả tiền cho ông Ní? Công ty cho rằng chuyển số tiền 464.152.000 đồng cho ông Ní theo yêu cầu của ông Húa, nhưng ông Húa cho rằng ông không có ký hợp đồng với ông Ní, lời trình bày này còn mâu thuẫn.
Ông Húa cho rằng ông không có ký hợp đồng với ông Ní, nhưng vào ngày 17/01/2017 (sau khi nghiệm thu công trình) ông Húa đã trả cho ông Ní số tiền 100.000.000 đồng, số tiền này ông Húa trả cho ông Ní với mục đích gì? Số tiền này là của cá nhân ông Húa hay là tiền của Công ty? Tất cả các vấn đề trên chưa được cấp sơ thẩm làm rõ.
Đối với các loại cửa, khe cửa, nẹp cửa, ổ khóa theo hợp đồng kinh tế số 02/HĐKT-2014 không ngày tháng năm 2014 và hợp đồng kinh tế số 03/HĐKT-2016 không phù hợp với hồ sơ thiết kế do phía Công ty cung cấp theo nguyên đơn là do trong quá trình thi công có phát sinh thêm. Tại biên bản nghiệm thu ngày 18/3/2016 thể hiện có phát sinh, bổ sung một số chi tiết: phát sinh tăng gạch nung; bổ sung thép vào bê tông nền; cổng tường rào; nhà vệ sinh; nhà bảo vệ… Tại biên bản nghiệm thu ngày 19/10/2016, Ban Quản lý dự án ĐTXD huyện Ba Tri có yêu cầu bổ sung các chốt cửa, nẹp chắn… Tuy nhiên, cấp sơ thẩm không thu thập các chứng cứ thu giữ tại Ban Quản lý dự án ĐTXD huyện Ba Tri để xem xét quá trình thi công có phát sinh, thay đổi gì so với hồ sơ thiết kế ban đầu hay không? Tài sản các bên tranh chấp là có thật, hiện hữu và có tranh chấp về số lượng, chủng loại nhưng Tòa án không tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ mà cho rằng khối lượng, số lượng cửa đi, cửa sổ tại công trình Trường Mỹ Nhơn đã thể hiện trong bảng quyết toán khối lượng hoàn thành và cửa đã được gắng vào công trình nên việc xem xét không chính xác là còn thiếu sót, đánh giá không đúng bản chất sự việc.
Trong vụ án này, Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Tri đã thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình từ khâu kiểm sát việc thụ lý đến quá trình tham gia phiên tòa và kiểm sát bản án, đã kịp thời phát hiện vi phạm nghiệm trọng của Tòa án cùng cấp để ban hành kháng nghị phúc thẩm, được Viện kiểm sát nhân dân tỉnh bảo vệ và Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận kháng nghị.
Trên đây là vụ án “Tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa” của Tòa án nhân dân huyện Ba Tri bị Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre hủy bản án và giao hồ sơ về cấp sơ thẩm giải quyết lại. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre (Phòng 10) thông báo để Viện kiểm sát nhân dân các huyện, thành phố nghiên cứu, rút kinh nghiệm nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng công tác kiểm sát trong lĩnh vực này./.
Thạch Thiện – Phòng 10 Viện tỉnh
ĐOÀN LUẬT SƯ HÀ NỘI
CÔNG TY LUẬT DRAGON
Giám đốc - Thạc sĩ Luật sư: Nguyễn Minh Long Công ty luật chuyên:Hình sự - Thu hồi nợ - Doanh nghiệp – Đất Đai – Trọng tài thương mại – Hôn nhân và Gia đình.
Văn phòng luật sư quận Cầu Giấy: Phòng 6 tầng 14 tòa nhà VIMECO đường Phạm Hùng, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
Văn phòng luật sư quận Long Biên: Số 24 ngõ 29 Phố Trạm, Phường Long Biên, Quận Long Biên, Hà Nội
Điện thoại: 1900 599 979 / 098.301.9109
Email: dragonlawfirm@gmail.com
Hệ thống Website:
www.vanphongluatsu.com.vn
www.congtyluatdragon.com
www.luatsubaochua.vn
www.dragonlaw.vn
#luatsubaochua #luatsutranhtung #luatsuhinhsu #luatsudatdai