Bản luận cứ bào chữa vụ án Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng

406
ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HÀ NỘI

CÔNG TY LUẬT DRAGON

——-o0o——-

 

LCBC – DRAGON/2020

 

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

——-o0o——

           

Hà Nội, ngày 29 tháng 10 năm 2020

 

BẢN LUẬN CỨ BÀO CHỮA

BỊ CÁO LÊ VĂN X

(Trong vụ án: “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra Tại Sở Y Tế, tỉnh Long An)

Kính thưa Hội Đồng Xét Xử !

Thưa vị đại diện Viện Kiểm sát và Luật sư đồng nghiệp cùng các Quý vị có mặt trong phiên tòa hình sự sơ thẩm hôm nay!

Chúng tôi là Luật sư Nguyễn Minh Long, Nguyễn Trung Tiệp, Đỗ Ngọc Anh – Thuộc Công ty Luật Dragon – Đoàn luật sư Hà Nội. Nhận đơn mời luật sư của bị cáo và được sự chấp thuận của TAND tỉnh Long An. Chúng tôi có mặt trong phiên tòa hôm nay với tư cách là người bào chữa cho ông Lê Văn X bị truy tố, xét xử về tội danh “cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng theo khoản 2 Điều 165 BLHS 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009.

Qua trao đổi làm việc với bị cáo, nghiên cứu hồ sơ vụ án và phần thẩm vấn, xét hỏi công khai tại phiên tòa hôm nay. Chúng tôi trình bày bản luận cứ bào chữa với những nội dung, quan điểm pháp lý như sau:

1- về tội danh

Tại trang 06 bản Cáo trạng số 56/CT – VKSLA – P1 ngày 30/09/2020 của VSKND tỉnh Long An nêu:

“Trong thời gian giữ chức vụ Giám đốc Sở Y tế tỉnh Long An từ ngày 01/10/2007 đến ngày 15/02/2017, bị can Lê Văn X được UBND tỉnh Long An giao làm chủ đầu tư xây dựng dự án Trung tâm kiểm nghiệm Dược phẩm – Mỹ phẩm, Trung tâm giám định Y khoa, Trung tâm giám định pháp y và Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm gồm nhiều gói thầu. Trong gói thầu cung cấp lắp đặt hệ thống camera giám sát an ninh, bị can Lê Thanh Lêm biết rõ các thiết bị được nhà thầu là Công ty ĐNA nhập về chân công trình để thi công lắp đặt bị thay đổi về xuất xứ hàng hóa và model so với hợp đồng đã ký kết, cụ thể: Camera xuất xứ Nhật bản thay đổi sang xuất Trung Quốc; đầu kỹ thuật số xuất xứ Nhật bản thay đổi sang xuất xứ Đài Loan; màn hình Tivi KDL – 46W70A, xuất xứ Nhật Bản thay đổi bằng màn hình Tivi KDL – 48W600B, xuất xứ MaLaysia; ổ cứng lưu trữ Seagate xuất xứ Mỹ thay đổi sang Western, xuất xứ Thái Lan, nhưng bị can Lê Văn X không chỉ đạo điều chỉnh đơn giá khi ký Phụ lục hợp đồng số 19.1.1/2014/PLHĐ – 04CQ ngày 12/07/2014, để thanh toán 100 % giá trị hợp đồng và thực hiện thanh lý hợp đồng giữa chủ đầu tư và nhà thầu, là không thực hiện đúng quy định về quyền và trách nhiệm của chủ đầu tư về quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình, là vi phạm quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 25 Nghị định số 112/2009/NĐ – CP ngày 14/12/2009 của Chính Phủ, gây thất thoát Ngân sách Nhà nước năm 2014 số tiền 911.880.168 đồng. Bị can Lê Văn X là người đại diện chủ đầu tư theo pháp luật, để xảy ra sai phạm, làm thất thoát Ngân sách Nhà nước nên phải hoàn toàn chịu trách nhiệm”.

Chúng tôi không đồng tình với nội dung cáo buộc trên của VKSND tỉnh Long an, bởi lẽ:

Thứ nhất: về lý luận khoa học hình sự

Điều 165 Bộ Luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định:

“1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây thiệt hại từ một trăm triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng hoặc dưới một trăm triệu đồng, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ một năm  đến năm  năm”.

Khách thể của tội phạm, tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, xâm phạm trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước đối với các thành phần kinh tế. Mặt khách quan của tội phạm thể hiện ở hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý làm trái quy định của Nhà nước trong quản lý kinh tế. Hành vi cố ý làm trái có thể thể hiện dưới dạng hành động (thực hiện không đúng) hoặc không hành động (không thực hiện các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế). Hành vi này chỉ cấu thành tội phạm khi gây hậu quả nghiêm trọng. Việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn là điều kiện, phương tiện để thực hiện tội phạm.

Thứ hai: về mặt khách quan

Một là: về nguyên nhân, điều kiện hoàn cảnh

Ngày 31/3/2017 – Bl 140 giám đốc CTCP TMDV Thành Đạt là Châu Phát Lâmkhai: “Đến khoảng tháng 5/2014, anh Vũ liên hệ với Công ty tôi để nhận mua thiết bị. Thời điểm này, Công ty tôi kiểm tra nguồn thiết bị hiện có tại Công ty và liên hệ với Công ty Sony Electronics Việt Nam thì xác định không còn thiết bị Camera SNC ER580, Camera SNC DH280, đầu ghi hình NSR500 xuất xứ Nhật Bản mà chỉ còn thiết bị Camera SNC ER580 xuất xứ Trung Quốc, Camera SNC DH280 xuất xứ Trung Quốc và đầu ghi hình NSR500 xuất xứ Đài Loan. Phía Công ty tôi thông báo cho phía anh Vũ biết và qua trao đổi với anh Vũ đồng ý mua thiết bị Camera SNC ER580 xuất xứ Trung Quốc, Camera SNC DH280 xuất xứ Trung Quốc và đầu ghi hình NSR500 xuất xứ Đài Loan. Sau đó, thì giữa 02 bên thương thảo ký kết Hợp đồng kinh tế số 120514/KĐ-ĐNA/HĐKT ngày 12/5/2014 giá trị hợp đồng là 684.640.000 đồng”.

Lời khai ngày 21/2/2017 – Bl 65 của Trần Nguyên Vũ giám đốc Công ty ĐNA như sau: “khi làm bản biểu giá cấu hình và đơn giá thiết bị Camera cho SYT tôi có liên hệ với Công ty Thành Đạt để đặt hàng mua thiết bị Camera, tôi yêu cầu Thành Đạt cung cấp thiết bị có xuất xứ Nhật Bản. Tôi trực tiếp liên hệ trao đổi với anh Khiết phụ trách bán hàng của Thành Đạt khu vực Long An và anh Châu Phát Lâm– giám đốc Công ty Thành Đạt. Lúc đó, những người này cho biết trên thị trường các loại Camera theo yêu cầu của gói thầu không có xuất xứ Nhật Bản mà chỉ có xuất xứ Trung Quốc.

Tôi báo cho anh Tuyến và anh Nghĩa về sự thay đổi xuất xứ thiết bị trong gói thầu ngay từ khi tôi đặt mua hàng và Công ty Thành Đạt cho biết thiết bị chỉ có xuất xứ Trung Quốc, không có xuất xứ Nhật Bản. Anh Tuyến bảo cứ nhận hàng về sẽ điều chỉnh xuất xứ sau. Từ đó tôi yên tâm thực hiện và nghĩ có gì thực hiện thủ tục đề nghị điều chỉnh xuất xứ. Nên khi kế toán phát hiện sai xuất xứ thì theo hướng dẫn của Nghĩa tôi tiến hành các thủ tục xin điều chỉnh lại xuất xứ cho đúng thực tế”.

Như vậy, lời khai của Châu Phát Lâmvà Trần Nguyên Vũ phù hợp với nhau. Điều này cho thấy các thiết bị trong gói thầu theo hợp đồng đã ký giữa Công ty ĐNA với Sở Y tế Long An ngày 18/4/2014 xuất xứ là Nhật Bản, vì điều kiện khách quan từ bên cung ứng là Công ty Thành Đạt không còn. Do đó, Trần Nguyên Vũ đã thông báo, trao đổi với đại diện bên Sở Y tế tỉnh Long An là Võ Tấn Nghĩa cán bộ Phòng Tài chính – Kế Hoạch là thành viên Ban quan lý dự án xây dựng của SYT cùng với Lê Quý Tuyến là phó ban về việc này. Trên cơ sở đó, mà ông X đã ký phụ lục hợp đồng số 19.1.1/2014/PLHĐ-4CQ ngày 12/7/2014 với nội dung điều chỉnh về xuất xứ nguồn gốc hàng hóa các thiết bị trong gói thầu Camera giám sát tòa nhà bốn cơ quan của Sở Y tế.

Hai là: về hành vi

 Việc ông X ký hợp các phụ lục hợp đồng ngày 12/7/2014 đồng ý cho nhà thầu Công ty TNHH TMDV ĐNA thay đổi xuất xứ hàng hóa trong thực hiện gói thầu cung cấp lắp đặt hệ thống Camera giám sát an ninh tòa nhà 04 cơ quan do Sở Y Tế làm chủ đầu tư. Vì trước đó đã có chứng thư thẩm định giá của Công ty Cổ phần thông tin và thẩm định giá miền Nam nhưng thời điểm chứng thư thẩm định giá đã hết hiệu lực. Đây là lỗi sai sót không phải hành vi cố ý của ông X và ban quản lý dự án. Mặt khác, ông X không chỉ đạo gì về việc thu thập các báo cáo giá thiết bị Camera cho hồ sơ gói thầu. Các bản báo giá này có trong hồ sơ là do nhân viên cấp dưới tự ý thu thập đưa vào hồ sơ mà ông X không hề hay biết. Hơn nữa, hiện nay theo quy định của Luật đấu thầu mới thì không còn quy định yêu cầu về xuất xứ hàng hóa trong xác lập hồ sơ mời thầu, chỉ định thầu.

Biên bản ghi lời khai ngày 19/7/2017 – Bl 54, ông X cho biết:

“Khi ký phụ lục hợp đồng chấp thuận cho nhà thầu Công ty ĐNA điều chỉnh thay đổi xuất xứ thiết bị mà không tiến hành khảo sát lại giá thiết bị là vì tôi dựa trên cơ sở xác định thiết bị Camera trong hợp đồng được nhà thầu cam kết không thay đổi về nhãn hiệu, model, cấu hình và đảm bảo chất lượng. Ngoài ra trước khi ký phụ lục hợp đồng thì phía Công ty Sony Việt Nam có văn bản thư xác nhận gởi Sở Y tế tỉnh Long An đề ngày 26/5/2014 xác nhận sản phẩm thiết bị Camera (kèm theo số seria cụ thể) được nhập khẩu phân phối tại Việt Nam và được bán rộng rãi trên toàn thế giới, đảm bảo đúng theo tiêu chuẩn chất lượng của chính hãng Sony”.

Thứ ba: về ý thức chủ quan

Biên bản hỏi cung bị can ngày 29/01/2018 – Bl 819, ông X trình bày:

“Tôi xác định trong quá trình thực hiện gói thầu cung cấp lắp đặt hệ thống Camera giám sát an ninh tòa nhà 04 cơ quan sở y tế thì tôi hoàn toàn không nhận lợi ích vật chất gì từ phía nhà thầu Công ty TNHH TMDV ĐNA hay từ bất kỳ người nào khác”

Biên bản hỏi cung bị can, ngày 2/2/2018 – Bl 821, ông X có quan điểm:

“Đến thời điểm hiện tại tôi nhận thấy hành vi của tôi không cấu thành tội phạm theo tội danh mà CQĐT đã khởi tố nên tôi không nộp số tiền khắc phục hậu quả như tôi đã xác định trước đó. Đồng thời, tôi cho rằng hành vi của tôi không gắn với thiệt hại đã xác định như trên. Tôi chưa rõ hành vi của tôi đã làm trái các quy định cụ thể nào, được thể hiện trong các văn bản nào”

Như vậy, trong vụ án này, ông X mặc dù làm giám đốc Sở Y tế là người có chức vụ, quyền hạn nhưng không hề có động cơ cá nhân hay dấu hiệu vụ lợi nào đối với gói thầu lắp đặt hệ thống camera giám sát an ninh. Các cơ quan tiến hành tố tụng cũng chưa chứng minh làm rõ được lỗi cố ý của ông như nào đã gây thiệt hại cho kinh tế Nhà nước ra sao.

2- Cáo trạng số 56/CT – VKSLA – P1 quy kết vi phạm quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 25 Nghị định số 112/2009/NĐ – CP ngày 14/12/2009 của Chính Phủ

Chúng tôi không đồng tình việc CQCSĐT và VKSND tỉnh Long An căn cứ vào KLGĐ số 4213/KLGĐ – STC ngày 25/09/2020 của Sở Tài Chính (STC) tỉnh Long An để buộc ông X “PHẠM TỘI” là không thực hiện đúng quy định về quyền và trách nhiệm của chủ đầu tư về quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình, là vi phạm quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 25 Nghị định số 112/2009/NĐ – CP. Bởi nội dung điểm đ khoản 2 Điều 25 đó quy định:

Điều 25. Quyền và trách nhiệm của chủ đầu tư.

  1. Chủ đầu tư có các quyền, trách nhiệm sau:

“đ) Quyết định việc áp dụng, sử dụng giá vật liệu xây dựng công trình, giá nhân công, giá máy và thiết bị thi công làm cơ sở cho việc lập đơn giá xây dựng, dự toán xây dựng công trình; tham khảo giá do các tổ chức có chức năng công bố, báo giá của nhà sản xuất, thông tin giá của nhà cung cấp hoặc giá đã áp dụng cho công trình khác có tiêu chuẩn, chất lượng tương tự và mặt bằng giá thị trường để áp dụng cho công trình”.

Thứ nhất: về hợp đồng số: 19/2014/HĐ – 04CQ

Về bản chất đây là một hợp đồng kinh tế (kinh doanh thương mại) bởi đối tượng mua bán hàng hóa là các sản phẩm thiết bị Camera, tivi, đầu kỹ thuật số, ổ cứng..Bên cung cấp/bán hàng là Công ty TNHH TMDV ĐNA và bên mua là Sở Y tế Long An làm chủ đầu tư, với giá trị hợp đồng là 1.920.000.000 đồng. Căn cứ để xác định đây là hợp đồng kinh tế vì ngay tại trang 2 của hợp đồng các căn cứ pháp lý áp dụng là Bộ Luật dân sự năm 2005, Luật đấu thầu 2005, Luật xây dựng năm 2003 vv..Khi thực hiện hợp đồng này sẽ ràng buộc 02 bên về quyền và nghĩa vụ cùng với lợi nhuận mà bên cung cấp/bán hàng hóa đạt được.

Thứ hai: việc ký hợp đồng là đúng thẩm quyền

Căn cứ vào quy chế làm việc của Sở Y tế tỉnh Long An ban hành kèm theo quyết định số 01/QĐ-SYT ngày 4/01/2011 trách nhiệm quyền hạn của của Giám đốc Sở Y tế  tại mục 2.5 Điều 4 là:“Chủ tài khoản, chủ đầu tư các nguồn kinh phí, các dự án y tế”; thẩm quyền ban hành và ký văn bản quy định tại Điều 18 chương VI quy chế: “giám đốc sở được quyền ký tất cả các văn bản ban hành”.

Như vậy, với việc ông Võ Văn Thắng là phó giám đốc Sở Y tế tỉnh Long An ký vào hợp đồng chính 19/2014/HĐ – 04CQ cùng Phụ lục nội dung công việc ngày 18/04/2014 là phù hợp với quy định tại Điều 18 chương VI của Quy chế quy định về việc ký văn bản: Phó giám đốc sở ký các văn bản trong lĩnh vực mình phụ trách và thay giám đốc các văn bản sau:“Công văn, hợp đồng thư mời, phiếu chuyển…”. Bởi trong thời gian đó, ông Thắng được phân công giao nhiệm vụ làm trưởng ban quản lý dự án xây dựng trực thuộc Sở Y tế Long An từ năm 2012-2014 theo Quyết định thành lập số 321 ngày 04/04/2012. Đến ngày 14/5/2014, thì ông X ra quyết định thành lập ban điều hành dự án xây dựng. Do đó, từ thời điểm này ông Thắng không còn phụ trách gói thầu với vai trò là trưởng ban quản lý dự án xây dựng thuộc Sở Y tế. Bởi vậy, việc ông X ký các phụ lục hợp đồng tiếp theo vào ngày 18/6/2014 và ngày 12/7/2014 là đúng về thẩm quyền, trách nhiệm của giám đốc Sở Y tế.

Thứ ba: việc thay đổi xuất xứ thuộc trường hợp bất khả kháng.

Một là: Thời điểm thực hiện gói thầu, nhà máy sản xuất chính hãng Sony đã chuyển sang Trung Quốc, Malaysia, Đài Loan, Thái Lan. Căn cứ khoản 14 Điều 3 Luật Thương Mại năm 2005 về xuất xứ hàng hóa thì các thiết bị trong hợp đồng phải mang xuất xứ từ nước sản xuất, còn chất lượng thì vẫn đảm bảo theo đúng yêu cầu, tiên chuẩn từ Sony JaPan. Nếu số thiết bị trên là của hãng sản xuất khác thì mới quy kết ông X làm trái.

Hai là: về lời khai của người liên quan

Ngày 20/3/2017 – Bl 96, Phạm Hồng Thái là trưởng phòng kế hoạch tài chính – Sở Y tế tỉnh Long An khai:

“Việc ký phụ lục hợp đồng điều chỉnh xuất xứ thiết bị trong hồ sơ gói thầu là thực hiện theo quy định tại Nghị định số 48/2010/NĐ-CP về hợp đồng trong hoạt động xây dựng. Công ty TNHH TMDV ĐNA đề nghị thay đổi thiết bị do không còn trên thị trường. Đây là trường hợp bất khả kháng nên nếu chủ đầu tư đồng ý thì phải điều chỉnh lại hợp đồng ban đầu bằng việc ký phụ lục hợp đồng. Việc ký phụ lục hợp đồng cần khảo sát lại giá thiết bị hay không là do chủ đầu tư quyết định. Trong trường hợp gói thầu này thì anh X quyết định không khảo sát lại giá thiết bị”.

Lời khai của Đinh Phan Chí Linh chuyên viên Phòng Kế hoạch tài chính – Sở y tế tỉnh Long an ngày 15/01/2018 – Bl 866 có nội dung:

“Công ty ĐNA đề nghị xin thay đổi xuất xứ thiết bị, đây thực chất là thay đổi thiết bị so với hợp đồng ban đầu. Đây là trường hợp bất khả kháng trong thực hiện hợp đồng. Do đó, theo Nghị định số 48/2010 của Chính Phủ quy định về hợp đồng trong hoạt động xây dựng thì phía chủ đầu tư và nhà thầu phải thương thảo ký lại phụ hợp đồng”.

Trước đó, ngày 26/5/2020, Sony Việt Nam đã có thư xác nhận về việc một số mã hàng Camera trong hợp đồng “Được nhập khẩu và phân phối bởi Sony Việt Nam và được bán rộng rãi trên toàn thế giới…chúng tôi xin đảm bảo hàng hóa cung cấp đúng theo tiêu chuẩn chất lượng chính hãng Sony và hưởng các chế độ bảo hành theo đúng tiêu chuẩn…”.

Mặt khác, Kết luận thanh tra số 3217/KL-UBND của UBND tỉnh Long An ngày 22/08/2016 cũng xác định qua xác minh Công ty TNHH Sony Electronics Việt Nam thời điểm tháng 4/2014, một số loại Camera quan sát, đầu ghi hình nêu trong hợp đồng không có sản xuất tại Nhật Bản.

Như vậy, lời khai của Phạm Hồng Thái phù hợp với Đinh Phan Chí Linh cùng với việc một số thiết bị Sony thực tế không khớp về xuất xứ so với trong hợp đồng là trường hợp bất khả kháng. Từ thực tế trên, ngày 12/7/2014, ông X đại diện Sở Y tế đã ký phụ lục hợp đồng với nhà thầu điều chỉnh xuất xứ một số thiết bị Sony trong gói thầu từ Nhật Bản sang Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia.

Thứ tư: quy định của pháp luật về hợp đồng.

Điều 4 hợp đồng số 19/2014/HĐ-04CQ quy định: hình thức hợp đồng là trọn gói. Giá trị hợp đồng  được điều chỉnh trong các trường hợp:

– Bổ sung, điều chỉnh khối lượng thực hiện so với hợp đồng

– Nhà nước thay đổi chính sách

– Trường hợp bất khả kháng, các bên tham gia thương thảo hợp đồng để xác định giá trị hợp đồng điều chỉnh theo quy định của pháp luật.

– Giá trị hợp đồng được tính theo quy mô ban đầu. khi thanh lý sẽ căn cứ theo quy mô, giá trị thực tế được phê duyệt.

Như vậy, với các quy định của hợp đồng thì chủ đầu tư và cá nhân ông X không có trách nhiệm phải điều chỉnh lại giá trị hợp đồng. Điều này là hoàn toàn phù hợp với quy định của Luật Đấu thầu năm 2005. Cụ thể:

Ngày ký hợp đồng 19/2014/HĐ-04CQ là ngày 18/4/2014, do đó phải áp dụng Luật Đấu thầu năm 2005. Điều 49 Luật Đấu thầu năm 2005 quy định:

“Điều 49. Hình thức trọn gói

  1. Hình thức trọn gói được áp dụng cho những phần công việc được xác định rõ về số lượng, khối lượng.
  2. Giá hợp đồng không thay đổi trong suốt thời gian thực hiện hợp đồng. Chủ đầu tư thanh toán cho nhà thầu bằng đúng giá ghi trong hợp đồng khi nhà thầu hoàn thành các nghĩa vụ theo hợp đồng”.

Điều 48 Nghị định số 85/2009/NĐ-CP hướng dẫn Luật Đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo Luật Xây dựng quy định:

“Điều 48. Hình thức hợp đồng trọn gói

  1. Nguyên tắc thanh toán đối với hình thức hợp đồng trọn gói được quy định tại Điều 49 của Luật Đấu thầu, cụ thể như sau:
  2. a) Giá hợp đồng không được điều chỉnh trong quá trình thực hiện hợp đồng, trừ trường hợp bất khả kháng theo thoả thuận trong hợp đồng (là những tình huống thực tiễn xảy ra nằm ngoài tầm kiểm soát và khả năng lường trước của chủ đầu tư, nhà thầu, không liên quan đến sai phạm hoặc sơ xuất của chủ đầu tư, nhà thầu, như: chiến tranh, bạo loạn, đình công, hỏa hoạn, thiên tai, lũ lụt, dịch bệnh, cách ly do kiểm dịch, cấm vận). Việc thanh toán được thực hiện nhiều lần hoặc thanh toán một lần khi hoàn thành hợp đồng. Tổng số tiền mà chủ đầu tư thanh toán cho nhà thầu cho đến khi nhà thầu hoàn thành các nghĩa vụ theo hợp đồng bằng đúng giá ghi trong hợp đồng. Trường hợp bất khả kháng thì thanh toán theo thoả thuận trong hợp đồng (nếu có)”

– Điểm a khoản 3 Điều 15 Nghị định số 48/2010/NĐ-CP ngày 07  tháng 5 năm 2010 của Chính Phủ quy định về hợp đồng trong hoạt động xây dựng quy định:

“3. Giá hợp đồng có các loại sau: 

  1. Giá hợp đồng trọn gói là giá hợp đồng không thay đổi trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng đối với khối lượng các công việc thuộc phạm vi hợp đồng đã ký kết, trừ trường hợp có bổ sung khối lượng theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 Nghị định này”.

 

Luật xây dựng năm 2014 quy định:

 

Điều 143. Điều chỉnh hợp đồng xây dựng

  1. Ngoài các quy định nêu tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, việc điều chỉnh giá hợp đồng xây dựng thuộc dự án sử dụngvốn Nhà nướccòn phải tuân thủ các quy định sau:
  2. a) Việc điều chỉnh đơn giá thực hiện hợp đồng chỉ áp dụng đối với hợp đồng theo đơn giá điều chỉnh và hợp đồng theo thời gian”

Điểm a khoản 3 Điều 15 Nghị định 37/2015/NĐ – CP ngày 22/04/2015 của Chính Phủ quy định về hợp đồng xây dựng như sau:

Điều 15. Giá hợp đồng xây dựng và điều kiện áp dụng

  1. Giá hợp đồng xây dựng có các hình thức sau:
  2. a) Giá hợp đồng trọn gói là giá hợp đồng không thay đổi trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng đối với khối lượng các công việc thuộc phạm vi hợp đồng đã ký kết, trừ trường hợp bất khả kháng và thay đổi phạm vi công việc phải thực hiện.

Như vậy, căn cứ vào các quy định nêu trên thì hợp đồng số 19/2014/HĐ-4CQ ngày 18/4/2014 là hợp đồng liên quan đến lĩnh vực đầu xư xây dựng thuộc loại trọn gói không thay đổi về giá trong suốt thời gian thực hiện hợp đồng. Vì vậy, khi thay đổi về xuất xứ nguồn gốc thiết bị so với hợp đồng ban đầu ký kết. Ông X với cương vị là giám đốc Sở Y tế tỉnh Long An ký phụ lục hợp đồng số 19.1.1/2014/PLHĐ-4CQ ngày 12/7/2014 điều chỉnh Điều 4 của hợp đồng số 19/2014/HĐ-4CQ về xuất xứ hàng hóa nhưng không thay đổi về giá là đúng với quy định của pháp luật. Hơn nữa, trong gói thầu này nếu áp giá hoặc thay đổi không đúng thì ông X mới sai luật, phải chịu trách nhiệm về việc làm của mình. Mặt khác, việc các cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Long An viện dẫn một điều khoản của Nghị định để phản bác một điều khoản của Luật là đang cố tình làm trái với quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 sửa đổi bổ sung năm 2015. Vì xét về tính hiệu lực thì Nghị định chỉ là văn bản pháp quy hay văn bản dưới luật mang tính hướng dẫn Luật/Bộ Luật.

3- về kết luận gây thất thoát ngân sách nhà nước là 911.880.168 đồng

Thứ nhất: về quy định của pháp luật

– Điều 9, Điều 22 thông tư 86/2011/TT-BTC ngày 17 tháng 6 năm 2011quy định:

Điều 9. Thanh toán vốn đầu tư

Nhà nước cấp vốn cho chủ đầu tư để chủ đầu tư thanh toán cho nhà thầu theo hợp đồng hoặc thanh toán cho các công việc của dự án thực hiện không thông qua hợp đồng, bao gồm:

– Thanh toán tạm ứng;

– Thanh toán khối lượng hoàn thành

Điều 22. Quyết toán vốn đầu tư

Việc quyết toán vốn đầu tư hàng năm và quyết toán vốn đầu tư khi dự án hoàn thành thực hiện theo hướng dẫn của Bộ Tài chính về chế độ quyết toán vốn đầu tư.

Trường hợp quyết toán đã được duyệt, nếu số vốn được quyết toán thấp hơn số vốn đã thanh toán cho dự án, chủ đầu tư có trách nhiệm thu hồi lại của nhà thầu để hoàn trả cho Nhà nước số vốn thanh toán thừa; nếu số vốn được quyết toán cao hơn số vốn đã thanh toán, chủ đầu tư có trách nhiệm thanh toán tiếp hoặc bố trí vốn vào kế hoạch năm sau để thanh toán cho nhà thầu”.

– Điều 26 Thông tư số 09/2016/TT-BTC ngày 18/01/2016 quy định:

Điều 26. Trách nhiệm trong quyết toán dự án hoàn thành

  1. Trách nhiệm của Chủ đầu tư:
  2. d) Khi dự án hoàn thành được phê duyệt quyết toán, trường hợp số vốn được quyết toán thấp hơn số vốn đã thanh toán cho dự án, chủ đầu tư có trách nhiệm thu hồi của nhà thầu hoặc nhà cung cấp để nộp về ngân sách nhà nước số vốn đã thanh toán thừa; trường hợp số vốn được quyết toán cao hơn số vốn đã thanh toán cho dự án, chủ đầu tư có trách nhiệm thanh toán tiếp cho nhà thầu hoặc nhà cung cấp theo giá trị quyết toán được phê duyệt khi có kế hoạch vốn.

đ) Chịu trách nhiệm thu hồi hết số vốn đã tạm ứng theo quy định.

  1. Trách nhiệm của các nhà thầu:
  2. b) Cùng với chủ đầu tư xử lý dứt điểm các vấn đề còn tồn tại theo hợp đồng đã ký kết; hoàn trả đầy đủ, kịp thời số vốn mà chủ đầu tư đã chi trả sai chế độ quy định.
  3. c) Chịu trách nhiệm chấp hành quyết định phê duyệt quyết toán dự án của cấp có thẩm quyền.

Đối chiếu với các quy định nêu trên cho thấy: gói thầu cung cấp lắp đặt hệ thống camera giát sát an ninh thuộc công trình tòa nhà 04 cơ quan do Sở Y tế làm chủ đầu tư có vốn đầu tư và vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư thuộc ngân sách Nhà nước. Bởi vậy, ngày 17-18/09/2014, Sở Y tế với đơn vị thi công là nhà thầu Công ty TNHH TMDV ĐNA đã nghiệm thu bàn giao khối lượng hoàn thành đưa vào sử dụng và thanh lý hợp đồng. Như vậy, đây là trường hợp thanh toán khối lượng hoàn thành khi quyết toán của gói thầu đã được UBND tỉnh Long An duyệt. Nếu số vốn được quyết toán thấp hơn số tiền đã thanh toán cho nhà thầu, thì Sở Y tế có trách nhiệm thu hồi lại của nhà thầu để hoàn trả cho Nhà nước. Cho nên, ông X đã yêu cầu, đề nghị Trần Nguyên Vũ là giám đốc của ĐNA nộp số tiền vào kho bạc nhà nước tỉnh Long An số tiền 735.000.000 đồng là đúng và phù hợp với các quy định pháp luật nêu trên. Đây chỉ là quan hệ dân sự thương mại, không phải hình sự.

Điều này chứng minh ông X không có hành vi cố ý làm trái nào trong hoạt động quản lý kinh tế gây thiệt hại nghiêm trọng hay làm thất thoát ngân sách nhà nước. Luật sư cho rằng việc các cơ quan tiến hành tố tụng  tỉnh Long an khởi tố, truy tố đối với ông X theo Điều 165 BLHS năm 2009 là đang hình sự hóa các quan hệ kinh tế, dân sự trái với Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 của Chính Phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020 tại điểm b khoản 5 Mục II nêu rõ:

“Để bảo đảm sự bình đẳng và quyền lợi của các doanh nghiệp chân chính; không hình sự hóa các quan hệ kinh tế, dân sự, tạo môi trường lành mạnh, an toàn để doanh nghiệp kinh doanh theo đúng pháp luật”.

Thứ hai: Theo khoản 4 Điều 30 Nghị định 112/2009 ngày 14/12/2009 thẩm quyền phê duyệt quyết toán vốn đầu tư là người quyết định đầu tư, theo Điều 9 Thông tư số 86/2011/TT-BTC ngày 17/6/2011, chủ đầu tư chỉ có thẩm quyền thanh toán tạm ứng và thanh toán khối lượng hoàn thành. Tại thời điểm thực hiện giám định từ tháng 3/2017 đến tháng 8/2017, trong KLTT số 3217 ngày 22/8/2016 do ông Trần Văn Cần Chủ tịch UBND tỉnh Long An ký có nội dung sau: “Đến thời điểm kết thúc cuộc thanh tra (tháng 3/2016) gói thầu này chưa được cấp có thẩm quyền phê duyệt quyết toán” (trích dòng 12, 13 trang số 03 KLTT 3217). Mặt khác, theo Thông báo số 239/TB-STC ngày 20/5/2015 thẩm định quyết toán vốn đầu tư thì gói thầu  camera cũng chỉ có giá trị thanh toán khối lượng hoàn thành. Như vậy, sự thật chưa có giá trị quyết toán.

Đến ngày 18/9/2019, UBND tỉnh Long An ra Quyết định số 3411/QĐ-UBND v/v phê duyệt quyết toán mới xác định giá trị quyết toán là: 1.184.825.000 đồng, giá trị thanh toán tạm ứng làm 1.920.000.000 đồng, số nợ phải thu là 735.000.000 đồng. Ngày 18/11/2019 nhà thầu là Công ty ĐNA đã hoàn trả số tiền đã thanh toán dư thừa cho ngân sách Nhà nước theo điểm b, c khoản 2 Điều 26 Thông tư số 09/2016/TT – BTC ngày 18/11/2016. Hiện nay tại kho bạc Nhà nước tỉnh Long An không có ghi nhận Sở Y tế gây thât thoát cho ngân sách. Như vậy Kết luận gây “Thất thoát ngân sách” số tiền 911.880.168 đồng là hoàn toàn vô lý, không đúng với thực tế.

4- Về kết luận giám định số 803 và 2602 và 4213/KLGĐ – STC ngày 25/09/2020

Thứ nhất: kết luận giám định số 803 ngày 21/03/2017.

Bản KLGĐ 803/KLGĐ-STC ngày 21/03/2017 là một văn bản giám định tư pháp nhưng không có giám định viên ký tên. Ông Huỳnh Văn Sơn không phải là giám định viên tư pháp. Như vậy KLGĐ 803 không có giá trị pháp lý.

Thứ hai: KLGĐBS số 2602/KLGĐ-STC ngày 14/08/2017

Bản KLGĐ bổ sung số 2602/KLGĐ-STC ngày 14/08/2017 là hình thức giám định tập thể nhưng chỉ có một GĐV Nguyễn Hữu Linh Giang ký, ông Huỳnh Văn Sơn ký 02 bản KLGĐTP nêu trên là không đúng quy định tại Điều 28, Điều 32 Luật giám định tư pháp 2012, điểm b mục 3 Công văn 4713/BTP – BTTP ngày 14/6/2013 của Bộ Tư pháp quy định:

“Trường hợp tổ chức (bao gồm tổ chức giám định tư pháp công lập và tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc) được trưng cầu, yêu cầu giám định thì người đứng đầu tổ chức được trưng cầu, yêu cầu đó phải ký tên, đóng dấu vào bản kết luận giám định và tổ chức được trưng cầu, yêu cầu chịu trách nhiệm về kết luận giám định tư pháp”

Thứ 3: về lĩnh vực giám định

Điều 3 thông tư số 138/2013/TT-BTC, GĐV lĩnh vực tài chính chỉ được giám định về: thuế, chứng khoán, hải quan, thuế và giá. Thế nhưng tại dòng 18 trang số 04 KLGĐBS số 2602, GĐV tài chính thực hiện giám định “quyết toán đầu tư xây dựng công trình”  là không đúng với thẩm quyền và trái với khoản 1 Điều 2 và khoản 3 Điều 3 Thông tư 04/2014TT-BXD ngày 22/4/2014 hướng dẫn một số nội dung về giám định tư pháp trong hoạt động đầu tư xây dựng quy định như sau:

“1. Giám định tư pháp trong hoạt động đầu tư xây dựng (sau đây gọi tắt là giám định tư pháp xây dựng) là việc cá nhân, tổ chức giám định tư pháp xây dựng sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để đánh giá, kết luận về chuyên môn đối với những vấn đề được trưng cầu, yêu cầu giám định trong hoạt động đầu tư xây dựng theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu giám định theo quy định của pháp luật.

Điều 3. Các nội dung giám định tư pháp xây dựng

  1. giám định tư pháp về chi phí đầu tư xây dựng công trình giá trị công trình và các chi phí khác có liên quan bao gồm: giám định về tổng mức đầu tư, dự toán xây dựng công trình, quyết toán vốn đầu tư xây dựng công trình, giá trị còn lại của công trình và các vấn đề khác có liên quan”.

 Như vậy STC thực hiện giám định không đúng thẩm quyền, không đúng lĩnh vực theo thông tư 138/2013/TT-BTC.

Thứ tư: hành vi gian dối, che dấu bớt nội dung pháp luật, thực hiện giám định không khách quan, trung thực.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 64 Luật Ngân sách năm 2002 và theo Điều 22 thông tư số 86/2011/TT-BTC ngày 17/6/2011 của Bộ Tài chính đều nêu rõ 02 nội dung về quyết toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản:

Nội dung thứ nhất: khi kết thúc năm ngân sách, chủ đầu tư phải lập báo cáo quyết toán tình hình sử dụng vốn ngân sách trong năm thực hiện theo Thông tư 210/2010/TT-BTC ngày 20/12/2010.

Nội dung thứ hai: khi dự toán hoàn thành phải lập và báo cáo quyết toán công theo quy định của pháp luật, thực hiện theo Thông tư số 09/2016/TT-BTC.

Thế nhưng tại dòng 24 trang số 04 Bản KLGĐBS số 2602, GĐV chỉ trích nội dung thứ nhất: “Đối với các dự án đầu tư xây dựng cơ bản, khi kết thúc năm ngân sách, chủ đầu tư phải lập báo cáo quyết toán tình hình sử dụng vốn ngân sách trong năm;…”. GĐV không trích dẫn tiếp nội dung thứ hai mà dùng dấu (…) nhằm che dấu Thông tư số 09/2016/TT-BTC. Tương tự tại dòng 11 trang 5 Bản KLGĐ số 803 ngày 21/03/2017 về quyết toán vốn đầu tư” Sở Tài chính cũng chỉ trích dấn Thông tư 210/2010/TT-BTC và cố tình che dấu Thông tư số 09/2016/TT-BTC.

Như vậy, ông Nguyễn Hữu Linh Giang và Huỳnh Văn Sơn đã vi phạm khoản 2 Điều 3 về nguyên tắc thực hiện giám định tư pháp và vi phạm khoản 2 Điều 6 các hành vi bị nghiêm cấm trong giám định tư pháp của Luật Giám định tư pháp năm 2012 và vi phạm khoản 4 Điều 68, Điều 100 BLTTHS năm 2015

Thứ năm: Bản kết luận giám định số 4213/KLGĐ – STC ngày 25/09/2020

Do các bản KLGĐ 803/KLGĐ-STC ngày 21/03/2017 và KLGĐBS số 2602/KLGĐ-STC ngày 14/08/2017 của STC Long An không khách quan, không trung thực, không chính xác và cố ý gian dối đưa ra kết luận giám định sai sự thật. Bởi thế, tất cả các chứng cứ được thu thập từ ngày 14/03/2019 của VKSND TP. Tân An trả hồ sơ điều tra bổ sung lần thứ 3 là hoàn toàn trái với trình tự thủ tục tố tụng được quy định trong BLTTHS năm 2015. Căn cứ theo khoản 2 Điều 87 quy định về “nguồn chứng cứ” thì không có giá trị pháp lý và không được dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án hình sự. Cho nên, Kết luận định giá tài sản số 154/KL-HĐĐG ngày 5/07/2019 của HĐĐG theo vụ việc trong tố tụng hình sự TP. Tân An là không có giá trị pháp lý. Vì trong kết luận định giá tài sản số 154/KL-HĐĐG ngày 5/7/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, giá trị tài sản của gói thầu tổng cộng là: 1.008.119.700 đồng. Thế nhưng trong kết luận thanh tra số 3217/Kl-UBND ngày 22/08/2016 của UBND tỉnh Long An về việc thanh tra gói thầu cung cấp và lắp đặt hệ thống camera giám sát an ninh dựa trên kết quả thẩm định giá số 788/KL-HĐTGĐ ngày 21/3/2016 của hội đồng thẩm định giá của Sở Tài Chính là 1.162.326.000 đồng. Chênh nhau tới: 154.206.300 đồng. Như vậy, trong cùng một vụ án có sự khác nhau về số tiền thiệt hại và giá trị tài sản. Số tiền này được xử lý như nào khi có hai kết quả khác nhau?.

Với những sai phạm trên của STC khi thực hiện giám định, CQCSĐT Công an tỉnh Long An vẫn “ĐƯỜNG CŨ” trưng cầu giám định tiếp theo đối với cơ quan này. Đến ngày 4/10/2020, Sở Tài Chính lại ra KLGĐ bổ sung số 22/KLGĐ – STC cho rằng vụ án xảy ra gây thất thoát số tiền là 911.880.168 đồng. Đến nay, Sở Tài Chính “SẢN XUẤT” thêm Bản kết luận giám định số 4213/KLGĐ – STC ngày 25/09/2020 với nội dung:

Việc Thanh toán gói thầu 100% giá trị hợp đồng và thực hiện thanh lý hợp đồng giữa chủ đầu tư và nhà thầu đã làm thất thoát ngân sách Nhà nước năm 2014, số tiền 911.880.168 đồng (chín trăm mười một triệu, tám trăm tám mươi nghìn, một trăm sáu tám đồng)”.

Đối chiếu với các quy định của pháp luật hiện hành và như trên phân tích, Luật sư cho rằng, Sở Tài Chính tỉnh Long An không còn thẩm quyền, tư cách giám định nữa. Kết luận giám định số 4213/KLGĐ – STC là sai phạm. Bởi lẽ:

Một là: Luật giám định tư pháp 2012 quy định:

“Điều 34. Các trường hợp không được thực hiện giám định tư pháp

  1. Người thuộc một trong các trường hợp sau đây thì không được thực hiện giám định tư pháp:
  2. b) Được trưng cầu giám định lại về cùng một nội dung trong vụ án, vụ việc mà mình đã thực hiện giám định, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
  3. Tổ chức thuộc một trong các trường hợp sau đây thì không được thực hiện giám định tư pháp:
  4. b) Có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng tổ chức này có thể không khách quan, vô tư trong khi thực hiện giám định”.

Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT – VKSNDTC – TANDTC – BCA- BTP ngày 13/12/2017 quy định về những trường hợp cần thiết phải trưng cầu giám định tư pháp trong việc giải quyết các vụ án, vụ việc kinh tế, tham nhũng như sau:

Điều 3. Nguyên tắc trưng cầu giám định, đánh giá và sử dụng kết luận giám định

  1. Khi trưng cầu giám định cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải lựa chọn tổ chức, cá nhân có đủ năng lực chuyên môn nghiệp vụ, điều kiện cơ sở vật chất để thực hiện việc giám định ở lĩnh vực hoặc chuyên ngành cần giám định. Khi đánh giá, sử dụng kết luận giám định, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải bảo đảm xem xét, đánh giá khách quan, toàn diện kết luận giám định làm căn cứ cho việc giải quyết vụ án, vụ việc.

Điều 4. Những trường hợp cần thiết phải trưng cầu giám định

Những trường hợp cần thiết phải trưng cầu giám định theo Thông tư liên tịch này, bao gồm:

  1. Khi cần xác định hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực đầu tư, gồm:
  2. c) Về khảo sát, tư vấn thiết kế, thi công, giám sát, nghiệm thu, thanh quyết toán”.

Như vậy, Sở Tài Chính tỉnh Long An không đủ điều kiện và có dấu hiệu không vô tư khách quan trong khi thực hiện giám định lại nên không được thực hiện giám định. Thế nhưng CQCSĐT Công an tỉnh Long An vẫn trưng cầu, Sở Tài Chính vẫn “Vô tư” tiếp tục giám định là sai phạm chồng sai phạm”.

Hai là: Trong việc giám định tư pháp này, có dấu hiệu cung cấp tài liệu sai sự thật, dẫn đến kết quả giám định không phù hợp, không đúng với thực tế. Luật sư kính đề nghị các cơ quan có thẩm quyền tiến hành điều tra làm rõ, xử lý theo pháp luật.

Ba là: Trong vụ án này, UBND tỉnh Long An được xác định là nguyên đơn dân sự, đã ủy quyền cho ông Lê Xuân Khang – Sở Tài Chính là người đại diện cho Ủy ban. Ông Khang yêu cầu ông Lê Văn X bồi thường số tiền gây thất thoát ngân sách Nhà nước qua thực hiện gói thầu cung cấp và lắp đặt hệ thộng camera giám sát an ninh với số tiền được xác định 911.880.168 đồng (chín trăm mười một triệu, tám trăm tám mươi nghìn, một trăm sáu tám đồng). Điều này, càng cho thấy, kết luận giám định số 4213/KLGĐ – STC của STC là không khách quan, không đúng pháp luật. Vì nó bảo vệ lợi ích của UBND tỉnh và bao che cho những sai phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Long An trong vụ án, trong khi đó thiệt hại không hề xảy ra.

Thứ sáu: việc không thông báo KLGĐ của Công an tỉnh Long An.

Tại phần 3 trang 2 Bản kết luận điều tra bổ sung số 139/KLĐT – CSĐT ngày 29/09/2020 có nội dung:

“Bản kết luận giám định số 4213/KLGĐ – STC ngày 25/09/2020 của Sở Tài Chính tỉnh Long An được hình thành trên cơ sở Quyết định trưng cầu giám định số 126/QĐ – CSKT ngày 10/09/2020 của CQCSĐT Công an tỉnh Long An, đảm bảo đúng quy định pháp luật”.

Như vậy, xác định KLGĐ số 4213 của STC dựa trên cơ sở Quyết định trưng cầu giám định số 126/QĐ – CSKT ngày 10/09/2020 của CQCSĐT Công an tỉnh Long An.

Đối chiếu với các quy định tại Điều 60, Điều 61; Điều 73 và khoản 2, khoản 3 Điều 214 Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015 thì ông X là bị can/bị cáo trong vụ án được quyền nhận tống đạt các quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền. Tuy nhiên, đối với 02 bản KLGĐ số 803 và 2602 ông X không hề được thông báo về những KLGĐ trên. Đặc biệt, sau khi KLGĐ số 4213 ra ngày 25/09/2020 thì cơ quan ra quyết định trưng cầu giám định là Công an tỉnh Long An không hề thông báo KLGĐ này cho Luật sư bào chữa để ông X cùng chúng tôi được biết và có quyền trình bày ý kiến của mình về KLGĐ, đề nghị giám định bổ sung hoặc giám định lại. Do vậy, CQCSĐT Công an tỉnh Long An đang vi phạm nghiêm trọng về tố tụng, điều này làm ảnh hưởng rất lớn đến quyền, lợi ích hợp pháp của ông X.

4-Việc khởi tố, điều tra, truy tố vi phạm nghiêm trọng về tố tụng

Thứ nhất: Việc không thông báo KLGĐ đã vi phạm Điều 214 BLTTHS năm 2015 và Điều 158 BLTTHS năm 2003. CQCSĐT Công an tỉnh Long An sử dụng chứng cứ KLGĐ số 803 không có giá trị pháp lý vì không do GĐV ký, KLGĐBS số 2602 có hành vi gian dối, sai sự thật. Đối với KLGĐ số 22 ngày 4/10/2019 không có giá trị pháp lý theo khoản 2 Điều 87 BLTTHS năm 2015.

Thứ hai: Điều 147 BLTTHS 2015 quy định khi kết thúc kiểm tra xác minh tố giác tin báo về tội phạm thì CQĐT ra một trong các quyết định sau đây:

  1. Quyết định khởi tố vụ án;
  2. b) Quyết định không khởi tố vụ án;
  3. c) Quyết định tạm đình chỉ kiểm tra, xác minh tố giác tin báo tội phạm.

Bên cạnh đó, điểm e khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội quy định:

“Đối với hành vi cố ý làm trái quy định Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng xảy ra trước 0h ngày 01/01/2018, mà sau thời điểm đó đang trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì tiếp tục áp dụng BLHS năm 1999”.

Như vậy, việc ông Phạm Hữu Châu – Thủ trưởng CQCSĐT đã ký quyết định khởi tố bị can là không đúng quyền hạn, nhiệm vụ được quy định tại khoản 1 Điều 147 BLTTHS năm 2015, khoản 3 Điều 8 Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT –BCA-BQP-VKSNDTC 22/12/2017 và điểm g khoản 1 Điều 10 Thông tư liên tịch số 06/2013/TTLT ngày 02/8/2013. Bởi  chưa có Kết luận điều tra trước 0h ngày 01/01/2018, cùng với việc ngụy tạo chứng cứ sai sự thật trái pháp luật, bưng bít không minh bạch thông báo các bản KLGĐ cho bị can.

Thứ ba: Quyết định số 02/QĐ-VKSTPTA ngày 14/3/2019 trả hồ sơ điều tra bổ sung cho CQĐTCA TP. Tân An là trái với khoản 2 Điều 174 BLTTHS năm 2015 (VKS chỉ được trả hồ sơ điều tra bổ sung 02 lần) và trái khoản 2 Điều 9 Thông tư liên tịch 02/2017/ TTLT –BCA-BQP-VKSNDTC ngày 22/12/2017. Bởi vậy, Quyết định tạm định chỉ điều tra ngày 15/5/2019 và Quyết định phục hồi điều tra ngày 9/7/2019, hoạt động điều tra thu thập chứng cứ trong giai đoạn này là trái với trình tự thủ tục của BLTTHS quy định tại khoản 2 Điều 87 về nguồn chứng cứ: “chứng cứ là những gì có thật nhưng không được thu thập theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định thì không có giá trị pháp lý và không được làm căn cứ để giải quyết vụ án hình sự”.

Như vậy, Kết luận điều tra đề nghị truy tố số 85 ngày 08/12/2019, của CQCSĐT Công an tỉnh Long An đã dùng chứng cứ sai sự thật, trái pháp luật để đề nghị truy tố là hành vi cố ý vi phạm nghiêm trọng trong tố tụng hình sự. Đến nay, hai cơ quan này tiếp tục sử dụng KLGĐ số 4213/KLGĐ – STC ngày 25/09/2020 của Sở Tài Chính tỉnh Long An, khi KLGĐ này tiếp tục vi phạm rất nghiêm trọng Điều 34 Luật giám định tư pháp, Điều 3 và điểm c khoản 4 Điều 4 Thông tư liên tịch số 01/2017 ngày 13/12/2017.

Thứ tư: việc Công an, VKS tỉnh Long An sử dụng kết luận giám định số 4213/KLGĐ – STC ngày 25/09/2020 do STC tỉnh Long An thực hiện giám định đã vi phạm nghiêm trọng Luật giám định tư pháp năm 2012 và Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015. Điều này cho thấy, các cơ quan tố tụng tỉnh Long An ngày càng lún sâu vào sai phạm pháp luật. Như vậy giai đoạn khởi tố, truy tố trước đó của CQCSĐT và VKSND tỉnh Long An không đủ căn cứ chứng minh buộc tội và dựa vào cơ sở nào để kết luận cho rằng ông X “Cố ý làm trái các quy định nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”??. Phải chăng các cơ quan này đang đứng trên pháp luật “CỐ Ý LÀM TRÁI” đẩy số phận một bác sĩ/nhà khoa học/cán bộ cũng là một công dân vào vòng lao lý vì những động cơ, mục đích chính trị không trong sáng phía sau?

Thứ năm: Thực tế CQCSĐT Công an tỉnh Long An không gửi thông báo KLGĐ 4213/KLGĐ – STC ngày 25/9/2020 và bản kết luận điều tra bổ sung số 139/KLĐT-CSĐT ngày 29/9/2020; VKSND tỉnh Long An không gửi bản Cáo trạng số 56/CT-VKSLA-P1 ngày 30/9/2020cho Luật sư. Tất cả các văn bản tố tụng trên, chúng tôi được biết do ông X nhận được gửi cho. Điều này, cho thấy hai cơ quan này vi phạm các hoạt động tiến hành tố tụng, quyền của người bào chữa.

Ngày 13/08/2020, TAND tỉnh Long An trả hồ sơ điều tra bổ sung vụ án ông Lê Văn X nguyên giám đốc Sở Y tế tỉnh Long An bị truy tố về tội danh theo Điều 165 của BLHS năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009. Đến ngày 29/09/2020, CQCSĐT Công an tỉnh Long An ra Bản Kết luận điều tra bổ sung vụ án hình sự số 139/KLĐT-CSĐT. Đến ngày 30/09/2020, VKSND tỉnh Long An ra bản Cáo trạng số 56/CT-VKSLA-P1. Theo đó, ngày 02/10/2020, TAND tỉnh Long An có quyết định đưa vụ án xét xử vào ngày 13/10/2020. Chúng tôi cho rằng đây là những quyết định “THẦN TỐC” chưa từng có trong lịch xử tố tụng, có dấu hiệu bất thường và sự liên kết chặt chẽ của các cơ quan tố tụng quyết tâm đưa ông X ra xét xử cho xong trước kỳ Đại hội Đảng của tỉnh Long An. Đến ngày 19/10/2020, CQCSĐT Công an tỉnh Long An lại ra văn bản số 429/TB – VPCQCSĐT do Thủ trưởng CQCSĐT là Đại tá Phạm Thành Tâm ký đóng dấu về việc thụ lý đơn khiếu nại về KLĐTBS của ông X. Như vậy, Công an tỉnh Long An đang xử lý theo quy trình ngược tố tụng với các Điều 475 BLTTHS. Bởi lẽ, về mặt nguyên tắc khi ra Bản KLĐTBS phải xử lý xong về giải quyết khiếu nại rồi mới chuyển hồ sơ sang VKS và Tòa án.

5- Dấu hiệu thiếu trách nhiệm của một số phòng ban/cá nhân trong SYT

Trong quy định về chức năng, nhiệm vụ các phòng chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Sở Y tế ban hành kèm theo Quyết định số 567/QĐ-SYT ngày 25/4/2014 của Sở Y tế Long An tại phần E chức năng nhiệm vụ của Phòng Kế hoạch tài chính như sau:

“Phòng kế hoạch tài chính có chức năng nhiệm vụ tham mưu cho giám đốc Sở Y tế thực hiện quản lý Nhà nước về công tác quy hoạch, kế hoạch, đầu tư phát triển ngành, tài chính kế toán, hợp tác viện trợ phát triển và thống kê trên địa bàn tỉnh.

  1. Công tác tài chính: 2- chi đầu tư xây dựng cơ bản, trình giám đốc Sở Y tế phê duyệt trước khi bảo vệ kế hoạch với các cấp có thẩm quyền; 3- quản lý các nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản của tỉnh cho y tế địa phương bao gồm: vốn Ngân sách Nhà nước, vốn tín dụng, vốn viện trợ, vốn vay và các nguồn vốn viện trợ khác theo quy định của pháp luật”.

Lời khai ngày 7/2/2017 – Bl 75 của Võ Tấn Nghĩa là thành viên Ban quản lý dự án xây dựng của Sở Y tế đồng thời còn là thành viên tổ tư vấn của ban quản lý dự án xây dựng (theo quyết định số 169 ngày 5/9/2012) như sau:

“Tôi chịu trách nhiệm soạn thảo các văn bản thủ tục phía chủ đầu tư Sở Y tế từ thủ tục xin chủ trương, dự toán công trình, chỉ định thầu, triển khai thực hiện cho đến khi nghiệm thu thanh lý hợp đồng gói thầu đảm bảo đúng quy trình, đủ thủ tục theo quy định, như các thủ tục xin chủ trương thực hiện gói thầu, thủ tục chỉ định thầu, bản hợp đồng, phụ lục hợp đồng, biên bản nghiệm thu, hồ sơ quyết toán..”

Bl 873, Ông Võ Văn Thắng khai: “các thủ tục tôi tham gia ký thực tế đều do cán bộ quản lý hồ sơ gói thầu là anh Nghĩa soạn thảo, trình qua anh Tuyến là phó ban quản lý dự án xem xét rồi mới trình cho tôi ký”

Bl 54, 819, ông X trình bày: “Tôi có tham khảo ý kiến của bộ phận kế toán cơ quan (anh Linh, anh Thái) về việc thay đổi xuất xứ hàng hóa với nhưng căn cứ trên thì bộ phận kế toán không có ý kiến về việc phải tiến hành khảo sát lại giá..Việc để xảy ra thiệt hại trong thực hiện gói thầu trên ngoài trách nhiệm cá nhân của tôi thì bộ phận kế toán mà cụ thể là anh Thái – với vai trò là trưởng phòng kế hoạch tài chính – kế toán trưởng Sở Y tế cũng phải chịu trách nhiệm vì chưa làm hết vai trò trách nhiệm được giao trong thẩm định, thực hiện thủ tục thanh toán”.

Như vậy, căn cứ vào quy chế làm việc và quyết định 567/QĐ-SYT ngày 25/4/2014 của Sở Y tế Long An nêu trên cùng lời khai của ông X và ông Thắng trưởng ban quản lý dự án phản ánh thực tế Võ Tấn Nghĩa và Phạm Hồng Thái là những cán bộ của Phòng kế hoạch tài chính và là thành viên trong ban quản lý dự án nhưng đã không làm hết trách nhiệm, nghĩa vụ được phân công, không thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của các phòng chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Sở Y tế trong việc tham mưu đề xuất giúp việc cho giám đốc Sở trong lĩnh vực mình phụ trách. Có dấu hiệu của tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng theo quy định tại Điều 285 Bộ Luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009. Luật sư đề nghị HĐXX xem xét.

7- ĐỀ NGHỊ CỦA LUẬT SƯ:

Từ những nhận định phân tích trên kết luận: các KLGĐ của Sở Tài Chính tỉnh Long An là vi phạm nghiêm trọng các quy định pháp luật (trong đó có KLGĐ 4213). Trong vụ án này thân chủ của chúng tôi là Lê Văn X không có hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng như Cáo trạng của VKSND tỉnh Long An kết luận, truy tố. Bởi thế, Luật sư đề nghị HĐXX xem xét những nhận định, phân tích trên của chúng tôi để ra những phán quyết công tâm. Yêu cầu của chúng tôi cụ thể như sau:

1- Đề nghị VKSND tỉnh Long An áp dụng khoản 1, khoản 2 Điều 157, khoản 1 Điều 248 BLTTHS 2015 đình chỉ vụ án vì ông Lê Văn X không phạm tội; Trên cơ sở đó, đề nghị HĐXX áp dụng khoản 4 Điều 326 BLTTHS tuyên ông Lê Văn X không có tội;

2- Trong trường hợp khác nếu xét thấy cần phải thu thập thêm chứng cứ tài liệu, làm rõ các tình tiết vụ án, căn cứ chứng minh tội phạm. Đề nghị HĐXX áp dụng điểm a khoản 1 Điều 280 BLTTHS năm 2015; điểm a khoản 2 Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT – VKSNDTC – TANDTC – BCA-BQP ngày 22/12/2017 trả hồ sơ điều tra bổ sung để giám định lại ở một cơ quan khác như Bộ Tài Chính.

Chúng tôi tin tưởng rằng HĐXX sẽ ra một bản án công minh, đúng pháp luật!

Xin chân thành cảm ơn HĐXX đã lắng nghe !

Bổ Sung bản luận cứ:

Luật sư Nguyễn Minh Long

Căn cứ theo cáo buộc mờ nhạt.

Căn cứ theo quan điểm HĐXX trước khi đưa ra xét xử ở phần thủ tục, đã nhận định chủ quan những người vắng mặt theo đề nghị của Luật sư, đã có biên bản xác minh, đối chất và đã làm rõ, nên không nhất thiết phải triệu tập.

Tôn trọng sự thật – Nhận thức tính đúng đắn về quy định pháp luật.

================================================

Luật sư bào chữa: Nguyễn Minh Long, Nguyễn Trung Tiệp, Đỗ Ngọc Anh.

Câu hỏi làm rõ tại Tòa:

Vắng mặt cần phải công bố lời khai, biên bản đối chất? Của người làm chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan để làm rõ các vấn đề chưa được làm rõ có trong hồ sơ bút lục vụ án, cũng như lời khai tại phiên tòa rất mâu thuẫn.

Cần làm rõ các giấy triệu tập có hợp lệ hay không? Có tống đạt văn bản và có chữ ký của người vắng mặt không có lý do ngày hôm nay không?

Với Nguyên Đơn UBND tỉnh Long An (Lê xuân khang) Vai trò Nguyên Đơn dân sự.

Hỏi nguyên đơn đã đơn thư tố cáo với ông X hay chưa?

Hỏi xác định thiệt hại không? từ thời điểm nào? Có phải dựa vào quyết toán của UBND tỉnh mới xác định là cơ sở cho việc đánh giá thiệt hại?

Sau khi có kết luận thanh tra, dựa vào những văn bản nào để cho rằng thiệt hại?

Quyết định phê duyệt dự án, đều căn cứ luật đấu thầu, luật xây dựng cơ bản và thông tư 09, ông nghĩ gì về kết luận thanh tra chỉ có đưa ra mỗi 1 vế cho rằng là sai phạm?

UBND tỉnh nhận tiền từ thời điểm nào từ ông vũ, Sau đó thời điểm nào thì khởi tố bị can và việc căn cứ vào giám định như vậy có đúng k?

Việc phê duyệt dự án, tiền vốn cấp cho SYT theo hình thức nào? Cách thức thanh quyết toán được quy định như thế nào? Căn cứ vào đâu?

 

Chỉ quy định về đơn giá để giám định?

  1. Xác định hợp đồng này là hợp đồng trọn gói hay thanh quyết toán từng phần/ giai đoạn?

Xác định phân loại hợp đồng / theo các điều khoản thanh quyết toán ở Hợp đồng

  1. Chức năng quyền hạn của Sở Tài Chính,

– Khi giám định tài sản, lý tại sao nhiều kết quả thay đổi mà không đề xuất cho cơ quan tố tụng sang 1 đơn vị khác giám định

– Căn cứ những hồ sơ nào để thực hiện giám định?

– Căn cứ quy định văn bản nào để có kết quả giám định

– Khi có kết quả giám định có gửi cho Bị cáo các đương sự theo tố tụng quy định? Trách nhiệm thuộc về ai?

  1. Làm rõ việc khiếu nại đối với Bị cáo
  2. Về Hợp đồng của gói thầu do UBND tỉnh Long An quản lý.

Gói thầy này có phải thuộc gói thầu xây dựng cơ bản, mà do UBND tỉnh Long An phê duyệt? Kho Bạc nhà Nước phê duyệt? Hợp đồng này là hợp đồng trọn gói có phải không?

– Căn cứ TT09/ luật xây dựng dựng để điều chỉnh gói thầu này phải không?

Bị cáo nhận được quyết định khởi tố bị can từ khi nào? BC có đồng thời nhận được thông báo/ quyết định khởi tố bị can không?

Lúc đó đã có kết luận giám định chưa? Kết quả giám định của Sở tài chính Bc có văn bản khiếu nại không?

BC có biết lý do tại sao bị khởi tố? Có phải CQTT căn cứ vào hợp đồng mà BC đã ký, thanh lý, và giám định là cơ sở khởi tố BC có phải không?

Hợp đồng này đã quyết toán chưa? Việc chưa quyết toán mà đã khởi tố BC, BC có ý kiến gì về việc này?

Hợp đồng khi phát hiện xuất sứ không đúng mỹ nhật mà thay đổi xuât sứ từ TQ, Malaysia, Thái Lan, có làm thay đổi hay có quy định nào bắt buộc phải điều chỉnh lại đơn giá căn cứ theo hợp đồng hay không?

BC khi phát hiện ra không đúng xuất sứ, BC có thỏa thuận riêng với Nhà thầu hay không? Hay BC có yêu cầu nhà thầu bằng vb để trả lời?

Mặc dù theo các chứng từ ký kết hợp đồng, ký biên bản nghiệm thu, thanh toán rút tiền,

Có văn bản nào thể hiện rằng chưa quyết toán về liên quan đến gói thầu này không? Có phải qd số 345/QĐ-UBND tỉnh ban hành ngày 20/1/2017 mới có quyết định về việc duyệt quyết toán vốn đầu tư dự án?

BC việc thanh toán theo hợp đồng, ký nghiệm thu, ủy nhiệm chi có phải là dựa theo thỏa thuận hợp đồng để thực hiện?

BC cho HĐXX theo thông lệ, thanh tra kiểm tra, có yêu cầu ông bồi thường k? Chủ yếu dựa vào nd 12, mà không dựa vào các vb khác có đúng k? Thanh tra kiểm tra đã có hồ sơ quyết toán của UBND tỉnh Long An chưa?

 Vậy để xác định thiệt hại có phải dựa vào hồ sơ quyết toán của UBND tỉnh Long An không?

  1. Về giám định:

BC nhận được kết luận giám định từ khi nào?

BC khiếu nại đã được cơ quan nào trả lời chưa?

Tại Phiên tòa BC có ý kiến gì liên quan đến việc giám định?

CTVKS quan điểm truy tố BC có ý kiến gì? có oan không?

BC yêu cầu tòa cần phải làm rõ những vấn đề gì?

  1. Về việc BC nộp tiền để khắc phục hậu quả:

Việc Vũ nhận tiền từ ông X đấy có phải là tiền khắc phục hậu quả hay không? Ý kiến của BC như thế nào? VKS căn cứ theo BL 1806- 1807?

Theo cáo trạng cho rằng ông đưa tiền cho ông vũ vào ngày 18/11/2019. Việc ông Vũ đóng số tiền 735.175.000 VNĐ là số tiền nào? Có phải đó là số tiền khắc phục của BC hay của ông Vũ? Có chứng cứ chứng minh việc ông đưa tiền cho ông Vũ hay không? Theo như HĐXX ngay phần thủ tục nhận định rằng đã có biên bản xác minh, có biên bản đối chất đầy đủ vậy Ông đã được đối chất với ông Vũ chưa?

Nhận định / đánh giá của Luật sư

Dựa trên hợp đồng/

10h30p

Thành phần tham gia phiên tòa:

Hội đồng xét xử Lê Văn Hùng,

Đào Ngọc Tính VKS nhân dân, Châu là thư ký phiên tòa,

  1. UBND tỉnh Long An ( Lê xuân khang ) Vai trò Nguyên Đơn dân sự.

Hỏi nguyên đơn đã đơn thư tố cáo với ông X hay chưa?

Hỏi xác định thiệt hại không? từ thời điểm nào?

Công tác ở Sở tài chính, đại diện cho UBND tỉnh, được quyền nhờ luật sư bảo vệ, quyền đưa ra đồ vật chứng cứ, được quyền tranh luận, quyền kháng cáo về phần trách nhiệm dân sự,

  1. Giám định viên (Vắng mặt)
  2. Công ty cổ phần thương mại dịch vụ Thành Đạt
  3. Công ty TNHH Sony ( Đào Vũ Thắng)
  4. Cơ quan điều tra ( Vắng mặt)
  5. Kho Bạc Nhà Nước ( vắng mặt)
  6. Luật sư
  7. Bị Cáo

Vắng mặt lần 2 không lý do,

Luật sư Huynh xét thấy, thấy muốn xử, thấy triệu tập 2 lần, trong vụ án này, đây là lần xét xử đầu tiên, vắng mặt nhiều người

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Vũ, Thắng, Thái,

Đặc biệt Nhân Chứng: Giám định viên (Nguyễn Hữu Linh Giang) làm rõ kết luận giám định.

Đề nghị hoãn phiên tòa, đảm bảo việc xét xử thẩm vấn công khai, khách quan vô tư.

Luật sư Nguyễn Trung Tiệp

Đề nghị HĐXX lưu tâm đã có văn bản gửi tới TA tỉnh Long An, trịnh Quang Hiền, các giám định võ tấn hải, trần diệu chi

Triệu tập điều tra viên ca tỉnh long an

Công ty thẩm định giá, kho bạc, hội đồng định giá tài sản.

Yêu cầu chưa được đáp ứng,

Vũ, Thắng, Nghĩa, hoãn phiên tòa, vắng các đương sự liên quan đến KL giám định 4213/ Cáo trạng đang dựa vào kết luận giám định, khiếu nại Viện trưởng VKS tỉnh Long An.

HĐXX hỏi BC:

BC nhận cáo trạng, nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử ( trên 10 ngày)

BC được quyền tự bào chữa, và có nhờ các luật sư, tiếp tục để các luật sư tiếp tục,

BC được quyề thay đổi HĐXX, VKS, thực hiện các quyền thay đổi, tôi không thay đổi,

BC quyền đưa ra đồ vật chứng cứ, tranh tụng,

BC có đồng ý đăng tải bản án, chấp hành sự điều khiển của phiên tòa.

Xưng tôi hoặc bị cáo.

BC

UBND tỉnh có đồng ý chỉ định thầu do công ty ĐNA, và UBND tỉnh ra vb giao cho sở y tế và căn cứ vào luật xây dựng và thông tư 09

Ban quản lý xem xét đánh giá năng lực. do sở y tế, phó giám đốc trưởng ban, ai là người

Sau khi được chỉ định thầu.

Bác sỹ PGĐ Bác sỹ ký hợp đồng, có quy định là Chủng loại xuất sứ, tất cả do lỗi anh em là sai.

Khi ký hđ, ĐNA, là 1,2 tỷ

Trong HĐ, có xuất sứ nhật bản và mỹ, 1,920.000.000đ.

Kỹ sư giám sát / thấy không đúng thì tôi cho dừng lại,

Việc theo dõi có người theo dõi, Ban quản lý dự án không còn do kết luận thanh tra có kết luận, sau đó điều chỉnh lại theo nghị định 12, lúc đó tôi đổi, anh thắng không còn tham gia.

Theo NĐ 12/ quy định

Hỏi: Khi thành lập ban quản lý mới, BC phân công ai theo dõi dự án CAMERA,

Đáp: Tôi phân công anh nghĩa, làm thủ tục giai đoạn cuối

H: khi nhập hàng không đúng xuất sứ, ai là người báo cho BC biết xuất sứ k đúng?

Đ: Tất cả anh em đều có ý kiến phát hiện ra và BC cho dừng lại không cho thi công.

H: Lý do tại sao lại cho tiếp tục thi công

Đ: Sau khi đối chiếu HĐ thấy đúng, tôi theo điều 34, luật xây dựng, theo hđ xây dựng, các moden, chỉ là xuất sứ k đúng,

H: Bị cáo có yêu cầu thỏa thuận gì với nhà thầu?

Đ: Tôi yêu cầu bằng văn bản, khảo sát lại văn bản, luật đấu thầu luật xây dựng, nghị định, không cho phép điêu chỉnh giá.

Đ: Điều chỉnh không đúng thì làm cho tốt hơn, điều chỉnh này chất lượng và số lượng đảm bảo

H:  Có đề nghị nhà thầu cam kết k? phải đúng

Đ: CTy khẳng định sản phẩm này ở nhật k còn sản xuất, đúng với hđ, không ảnh hưởng đến chất lượng và giá.

H: Công ty ĐNA có mấy văn bản

Đ: Tôi yêu cầu anh Vũ lắp đặt đúng theo yêu cầu theo hợp đồng, anh vũ nói hàng k còn sản xuất, tôi đồng ý cho thay đổi xuất sứ.

Đ: Cùng 1 hãng cùng chủng loại, thông số như nhau k cần phải điều chỉnh, không thẩm định lại giá,

H: trong dự án, Kế toán, có ai đề xuất về việc điều chỉnh giá?

Đ: Không ai đề xuất mà dựa vào pháp luật.

H: Việc điều chỉnh giá, có biết quá 3 tháng,

Đ: Tôi ký phụ lục hợp đồng, có điều chỉnh ở phụ lục về xuất sứ. Vì hợp đồng còn hiệu lực nên tôi điều chỉnh. Sau đó BC cho thi công, sau khi lắp đặt gói thầu lắp đặt, có nghiệm thu, tôi làm báo cáo.

H: Gói thầu đã hoàn thành chưa, có nghiệm thu chưa? Sau khi ký nghiệm thu, chuyển hồ sơ sang kế toán, quyết toán.

Đ: Gói thầu hoàn thành, nghiệm thu, kế toán thanh toán, kế toán cho rằng đủ điều kiện, kế toán làm tờ rút vốn tôi mới ký.

H: gói thầu này k có tạm ứng

Đ: Thanh toán 100%, có 2 đợt thanh toán.

H: Có quyết toán vốn cho sở tài chính không? Khi bị cáo đồng ý thay đổi xuất sứ có trình UBND tỉnh biết về hợp đồng ?

Đ: có tiến độ hoàn thành, sở tài chính, kiểm soát thanh toán, kho bạc đối chiếu rà soát, kết quả thẩm định sở tài chính thông qua. Việc báo cáo UBND tỉnh phải vượt số tiền đầu tư.

H: UBND tỉnh Long An quyết toán gói thầu này chưa?

Đ: Năm 2019 mới quyết toán, số tiền trả lại do Trần Nguyên Vũ, đó là trách nhiệm của Nhà thầu phải nộp, trách nhiệm của Chủ đầu tư yêu cầu Nhà thầu.

H: UBND tỉnh yc sở tài chính yêu cầu thu hồi lại,

Đ: Mặc dù sau khi tôi nghỉ anh Vũ phải thực hiện hoàn trả thực hiện theo quy định.

H: Công trình này có thất thoát k?

Đ: Việc chi tiền cho nhà thầu 100% vốn, không tạm ứng, NĐ 48 về thanh quyết toán, điều 21 về gói thầu. thanh toán gói thầu, khi quyết toán gói thầu nếu sai thì thu hồi.

H: có thừa nhận về tội cố ý? Có gây thất thoát cho Nhà Nước hay không?

Đ: Tôi k gây hậu quả thất thoát cho nhà nước

Buổi chiều:

HĐXX hỏi Nguyên Đơn Dân sự ( Đại diện UBND tỉnh)

H: Sở y tế, có văn bản chỉ đạo sở y tế,

Đ: Có chỉ đạo và nhận được trình ý kiến đối với UBND tỉnh

H: Trong quá trình thực hiện gói thầu có phát sinh, thay đổi xuất sứ, SYT có xin ý kiến UBND tỉnh hay không?

Đ: Không ( Cần làm rõ với UBND tỉnh, những vấn đề gì cần phải xin ý kiến)

H: Lúc đầu xin ý kiến

Đ: Lúc đầu xin ý kiến, sau k có xin ý kiến. Nhưng phải báo cáo với UBND tỉnh,

H: Không đúng với HĐ ban đầu thì phải khảo sát lại giá?

Đ: Đúng phải khảo sát lại giá.

H:

Đ: Cụ thể ông Lê Văn X, chủ đầu tư phải chịu trách nhiệm về vấn đề này.

H: Trình bày rõ Kết luận giám định của sở tài chính thanh toán 100% gây thất thoát cho NN thì ý kiến UBND tỉnh

Đ: Nếu sai phạm thì phải hoàn trả lại cho UBND tỉnh, tại trang 11, KLGĐ nhà thầu, chủ đầu tư phải thanh toán 911.880.168 phải trả lại ngân sách cho NN

HĐXX hỏi

H: Ai thẩm định hồ sơ đưa xuống bộ phận kế toán

Đ: Nghĩa phát hiện

H: Có hoàn trả lại hồ sơ,

Đ: yêu Cầu đúng thực tế như thế nào phải làm đúng như thế

H: Có phụ lục hợp đồng, cho phép kéo dài thời gian?

Đ: Chưa thấy, yêu cầu nghĩa làm đúng theo hợp đồng

H: Nghĩa có làm đúng theo anh hướng dẫn không?

Đ: Thấy phù hợp giấy tờ, xuất xứ,

H: Có thấy 2 bảng báo giá không?

Đ: Có điều chỉnh xuất xử, không thấy điều chỉnh lại giá,

H: giao lại cho Thái xem xét phần đó,

Đ: anh thái xem xét lại hồ sơ, bổ sung báo giá, có thay đổi, sau đó có thực hiện đúng theo 2 bảng báo giá.

H: anh có biết 2 bảng báo giá đó ntn k?

Đ: đó là phần kỹ thuật, còn kế toán thấy đầy đủ hợp lệ thì quyết toán.

H: Nghĩa tập hợp giấy tờ xong, để thanh toán, Nghĩa là người đem xuống hay chủ đầu tư, nhà thầu?

Đ: Nghĩa đem hồ sơ xuống.

H: Nghĩa được theo dõi từ đầu kể cả thi công tại công trường.

Đ: Việc hoàn thành hồ sơ, để anh thái kiểm tra, ký rút tiền và trình lãnh đạo ký.

H: rút bao nhiêu đợt

Đ: lúc đầu 220 triệu / lần 2 1.7 tỷ

H: Công trình có hoàn thành

Đ: Có báo cáo sở y tế, TT210 cuối năm phải báo cáo quyết toán chỉ nêu khối lượng hoàn thành,

H: Chỉ hoàn thành nghiệm thu 2014 là hoàn thành 100%

H: Việc thay đổi xuất xử? có phải thẩm định lại giá không? Chứng thư hết thời hạn thẩm định.

Đ: tôi không tham gia, nên không biết giá, không xác định được, cái này do thẩm quyền của chủ đầu tư, theo y

HĐXX hỏi Anh Thái

UBND tỉnh có chủ trương

YC phải khảo sát lại giá, xin điều chỉnh dựa theo 2 thông báo

Báo cho chủ đầu tư, phụ lục đã điều chỉnh lại xuất xử, nên Anh Nghĩa mới bổ sung 2 đơn giá.

H: Anh xác định gói thầu đưa vào sử dụng, hay hoàn thành năm 2014

Đ: Xét về gói thầu, coi như đã thanh toán/ chưa hoàn thành quyết toán.

HĐXX hỏi anh Linh là kế toán của SYT

Bộ phận kỹ thuật anh Võ Tấn Nghĩa và Thắng gửi hồ sơ, tôi thấy phát hiện CO/CO là không đúng xuất xứ

Về kỹ thuật thì tôi không đánh giá, chỉ biết là hồ sơ có phù hợp hay không thôi.

Sau khi trả lại hồ sơ và tôi kiểm tra lại cơ bản là đầy đủ, có bổ sung phụ lục hợp đồng và thay xuất xứ, có văn bản đề xuất nhà thầu, chủ đầu tư đồng ý.

Khi anh Nghĩa đưa 2 bản báo giá cho tôi, tôi báo cáo lại cho anh Thái.

Gói thầu thanh quyết toán với nhà thầu thi công. Thanh toán khối lượng hoàn thành của hợp đồng, của gói thầu đó.

Có 4 kết luận giám định, sở tài chính có đúng thẩm quyền hay k? Cái này về thủ tục tôi không rành nên tôi không trả lời.

HĐXX hỏi anh Thắng thẩm định giá

Người thực hiện trực tiếp anh lê minh kha, SYT đã khảo giá

H: Cty cử ai thẩm định gói thầu này?

Đ: SYT yêu cầu thẩm định, theo phân công nhiệm vụ để thực hiện hồ sơ này.

H: Chứng thư thẩm định anh có tham gia thẩm định viên

Đ: Cử cán bộ khảo sát thị trường, báo cáo thẩm định giá, soát nội bộ,

H: giá thị trường xuất xử camera, ntn?

Đ: Xuất xứ tại Nhật, thẩm định gói thầu này 1.920.000 VNĐ,

H: Khảo sát công ty nào?

Đ: tôi khảo sát 5 cty, đánh giá theo yêu cầu của chủ đầu tư để đánh giá thẩm định,

H: Có khảo sát công ty Thành Đạt k?

Đ: Anh Vũ ký HĐ mua thiết bị ở Cty Thành Đạt

H: Hiệu lực của kết quả là bao lâu?

Đ: Chứng thư có hiệu lực 3 tháng

H: sau 3 tháng hết hiệu lực có sử dụng k?

Đ: Không sử dụng.

BB ghi lời khai 26/4/2017 Cty Thái, An Ninh QT, Chứ A Kha chỉ trao đổi qua điện thoại? không trực tiếp, việc khảo sát thông tin, qua điện thoại, email. Qua nhiều hình thức kênh thông tin.

Kết quả thẩm định giá có hiệu lực trong thời gian:

Tôi là thẩm định viên,

HĐXX Công bố lời khai của Trần Nguyên Vũ ( Công ty ĐNA)

Sau khi nghiệm thu, Anh Nghĩa yêu cầu bổ sung 2 đơn giá, 2 bảng báo giá này, do nhân viên cty tôi làm, thiết kế trên máy, do nhân viên tự ý, tôi chỉ đưa bằng nội dung, cấu hình thiết bị trên camera

H: tôi đưa ntn

Đ: Tôi đưa cho Nghĩa, không gặp, tôi đưa cho a Linh

H: ký kết hợp đồng Camera diễn ra ntn?

Đ: SYT làm thủ tục đầy đủ, theo hồ sơ đề xuất, nội dung do anh Nghĩa thực hiện quản lý dự án, HĐ do anh Thắng ký vào, từ trước tới giờ, tôi không có ai trao đổi với ai, hoặc anh X

H: Việc ký phụ lục

Đ: Việc này tôi k cố ý, do sao chép copy, do các bên tham gia nghiệm thu, khi ký k ai phát hiện ra sai sót,

H:

Đ: Ký gia hạn hđ, nên phía nhà thầu phải bố trí kéo dài thời hạn hđ.

H: Anh vũ và A X có trao đổi gì?

Đ: Sau khi ký chỉ còn thiết bị TQ, tôi trao đổi với anh Tiến bảo cứ nhập hàng về, theo ý kiến của anh Nghĩa,

Tôi chỉ giải trình với anh X, phải có xác nhận chất lượng hàng hóa của sony,

H: Có yêu

Đ: Tôi chỉ xây dựng đơn giá ban đầu, làm 2 bảng báo giá để hợp thức hóa, không phải thương thảo lại đơn giá theo hợp đồng.

Bản hợp đồng giá trị theo yc, chính THÀNH ĐẠT

VKS xét hỏi Bị cáo

H: Sau khi có qd của chủ đầu tư, Chỉ định thầu 18/4/2014

Đ: Theo quy định chủ đầu tư ký duyệt/

H: xuất xử không đúng, nếu xuất sứ khác nhau, thì giá có thể thay đổi

Đ: Về việc này,

H: Có phân công vai trò GĐ, tôi có bảng quy chế phân công rất rõ ràng, phân công cho Anh Thắng quản lý.

Đ: Khi thực hiện gói thầu, tôi rất cẩn thận yêu cầu đi khảo sát, chính hãng, cấu hình đúng, chất lượng. Tôi đã tham khảo, yêu cầu phải khảo sát, theo quy định chủ đầu tư trong 6 tháng có quyền khảo sát

Đ: QĐ 1, 2 tỷ đã thanh toán cho NN, theo thông tư nghiệm thu, khi có giá trị quyết toán. Chỉ nói 1 phần là hợp đồng thanh toán, chưa nói quyết toán hợp đồng.

 H: Theo QĐ 3411/ thanh toán cho gói thầu. TT 86, NĐ 48, điều 18, chúng tôi mới thanh toán HĐ.

28/3 đến 28/6 hết hạn, không có giá trị là không có cơ sở,

========================================================

ĐOÀN LUẬT SƯ HÀ NỘI

CÔNG TY LUẬT DRAGON

Giám đốc - Thạc sĩ Luật sư:  Nguyễn Minh Long Công ty luật chuyên:
Hình sự - Thu hồi nợ - Doanh nghiệp – Đất Đai – Trọng tài thương mại – Hôn nhân và Gia đình.
Văn phòng luật sư quận Cầu Giấy:  Phòng 6 tầng 14 tòa nhà VIMECO đường Phạm Hùng, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
Văn phòng luật sư quận Long Biên: Số 24 ngõ 29 Phố Trạm, Phường Long Biên, Quận Long Biên, Hà Nội
Điện thoại: 1900 599 979 / 098.301.9109
Email: dragonlawfirm@gmail.com
Hệ thống Website:
www.vanphongluatsu.com.vn
www.congtyluatdragon.com
www.luatsubaochua.vn
www.dragonlaw.vn
#luatsubaochua #luatsutranhtung #luatsuhinhsu #luatsudatdai