Trong hệ thống hình phạt chính của Bộ luật hình sự nước ta thì hình phạt tiền nhẹ hơn hình phạt tù và trong nhiều trường hợp Điều luật quy định hình phạt chính áp dụng đối với người phạm tội không chỉ có 1 loại mà còn có thể lựa chọn giữa áp dụng hình phạt tù hoặc hình phạt tiền. Bên cạnh đó, còn có một chế định khác thể hiện tính nhân đạo của pháp luật được hình thành rất lâu trong lịch sử lập pháp của nước ta luôn song hành với hình phạt tù đó là án treo. Thế thì trong trường hợp Điều luật có quy định tùy nghi giữa hình phạt tù và người phạm tội có thể được hưởng án treo với hình phạt tiền thì việc lựa chọn áp dụng cũng như hậu quả pháp lý giữa án treo và hình phạt tiền như thế nào.
1. Điều kiện áp dụng
Hình phạt tiền: Theo quy định tại Điều 35 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 (BLHS 2015) hình phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với các trường hợp sau đây: người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật này quy định; người phạm tội rất nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, môi trường, trật tự công cộng, an toàn công cộng và một số tội phạm khác do Bộ luật này quy định.
Khoản 2 Điều 50 BLHS 2015 về căn cứ quyết định hình phạt có quy định: “Khi quyết định áp dụng hình phạt tiền, ngoài căn cứ quy định tại khoản 1 Điều này, Tòa án phải căn cứ vào tình hình tài sản, khả năng thi hành của người phạm tội”.
Án treo: Theo quy định tai Điều 65 BLHS 2015, khi xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật thi hành án hình sự.
Ngoài ra, theo hướng dẫn tại Điều 2 Nghị quyết 02/2018 của HĐTP Tòa án nhân dân tối cao về điều kiện cho người bị kết án phạt tù được hưởng án treo như sau:
“Người bị xử phạt tù có thể được xem xét cho hưởng án treo khi có đủ các điều kiện sau đây:
1. Bị xử phạt tù không quá 03 năm.
2. Có nhân thân tốt.
Được coi là có nhân thân tốt nếu ngoài lần phạm tội này, người phạm tội luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú, nơi làm việc.
Đối với người đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích, người bị kết án nhưng đã được xóa án tích, người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị xử lý kỷ luật mà thời gian được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 06 tháng, nếu xét thấy tính chất, mức độ của tội phạm mới được thực hiện thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hoặc người phạm tội là đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án và có đủ các điều kiện khác thì cũng có thể cho hưởng án treo.
3. Có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
Trường hợp có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phải nhiều hơn số tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự từ 02 tình tiết trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
4. Có nơi cư trú rõ ràng hoặc nơi làm việc ổn định để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám sát, giáo dục.
Nơi cư trú rõ ràng là nơi tạm trú hoặc thường trú có địa chỉ được xác định cụ thể theo quy định của Luật Cư trú mà người được hưởng án treo về cư trú, sinh sống thường xuyên sau khi được hưởng án treo.
Nơi làm việc ổn định là nơi người phạm tội làm việc có thời hạn từ 01 năm trở lên theo hợp đồng lao động hoặc theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
5. Xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù nếu người phạm tội có khả năng tự cải tạo và việc cho họ hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”
2. Hậu quả pháp lý
Theo quy định tại khoản 2 Điều 65 BLHS 2015 trường hợp đương nhiên xóa án tích được áp dụng đối với người bị kết án không phải về các tội quy định tại Chương XIII và Chương XIV của bộ luật này khi họ đã chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây: 01 năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù nhưng được hưởng án treo. Theo quy định trên thời hạn để tính xóa án tích của án treo sẽ được tính từ khi hết thời gian thử thách; đối với phạt tiền thời hạn xóa án tích sẽ được tính từ khi người bị kết án chấp hành xong hình phạt tiền.
Ngoài ra, trong thời gian thử thách đối với người được hưởng án treo nếu cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 BLHS.
Qua đó, nhận thấy về điều kiện áp dụng án treo chặc chẽ hơn và để lại hậu quả pháp lý nặng nề hơn so với phạt tiền. Tuy nhiên, trong một số trường hợp bị cáo không đủ điều kiện để áp dụng án treo nhưng Hội đồng xét xử có thể áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo, ví dụ: Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm Điều 191 BLHS, tại khoản 1 có quy định như sau:
“Người nào tàng trữ, vận chuyển hàng cấm thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 232, 234, 239, 244, 246, 249, 250, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:…”
Trong trường hợp bị cáo phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 191 BLHS và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, bị cáo đã ăn năn hối cải, nhận thấy không cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, Tòa án có thể cho bị cáo hưởng án treo. Tuy nhiên, trong trường hợp bị cáo có 01 tiền sự thì không thỏa mãn điều kiện được hưởng án treo thì Tòa án có thể xem xét lựa chọn áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.
Như vậy,án treo là một chế định thể hiện tính nhân đạo trong chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta. Với phương châm “giáo dục – khoan hồng”, án treo không buộc người bị kết án cách ly khỏi xã hội mà tạo điều kiện cho họ được hòa nhập cùng cộng đồng, họ vẫn được làm ăn, sinh sống và chứng tỏ sự hối cải, hoàn lương của mình ngay trong môi trường xã hội bình thường dưới sự giám sát, theo dõi, giáo dục của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Còn đối với hình phạt tiền đây là biện pháp trừng phạt tác động trực tiếp đến kinh tế người phạm tội. Khi quyết định áp dụng hình phạt này cần cân nhắc đến tình hình tài sản, khả năng thi hành án của người phạm tội. Mục đích của hình phạt này không chỉ nhằm trừng trị, răn đe người phạm tội mà còn tạo điều kiện để bản thân người phạm tội có khả năng tiếp tục lao động khắc phục hậu quả của tội phạm; đồng thời, giúp Nhà nước giảm chi phí trong công tác thi hành án phạt tù tại các trại giam.
Trần Thị Minh Thư – Phòng 7 Viện KSND tỉnh Bến Tre