1900599979

Giám định lại, quyền yêu cầu giám định lại và quyền từ chối giám định trong Luật Giám định tư pháp

Luật Giám định tư pháp, được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 20/6/2012, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013 (viết tắc Luật GĐTP). Pháp lệnh giám định tư pháp số 24/2004/PL-UBTVQH11 hết hiệu lực kể từ ngày Luật này có hiệu lực. Kể từ ngày Luật GĐTP có hiệu lực thi hành, các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS), Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS), Luật tố tụng hành chính về giám định tư pháp (GĐTP) nếu có nội dung khác với quy định của Luật GĐTP thì áp dụng quy định của Luật này. Từ khi Luật GĐTP được triển khai thi hành cho đến nay, công tác GĐTP đã đạt được những kết quả nhất định: Công tác thể chế từng bước được hoàn thiện, hệ thống các văn bản pháp luật về GĐTP cơ bản được ban hành kịp thời, như Nghị định 85/2013/NĐ-CP ngày 29/7/2013 của Chính phủ, quy định chi tiết và biện pháp thực hiện Luật giám định tư pháp; Thông tư 138/2013/TT-BTC ngày 09/10/2013 của Bộ Tài chính, hướng dẫn một số nội dung của Luật Giám định tư pháp và  Nghị định 85/2013/NĐ-CP ngày 29/7/2013 của Chính phủ, quy định chi tiết và biện pháp thực hiện Luật giám định tư pháp; Thông tư 24/2013/TT-BTTTT ngày 27/12/2013 của Bộ Thông tin và truyền thông, quy định về giám định tư pháp trong lĩnh vực thông tin và truyền thông;…; số lượng giám định viên tư pháp được nâng lên cả về số lượng và chất lượng; vấn đề kiện toàn tổ chức trong lĩnh vực pháp y và pháp y tâm thần, lĩnh vực kỹ thuật hình sự đã được quan tâm, đầu tư về con người, cơ sở vật chất, phương tiện làm việc… Tuy nhiên, một số quy định của Luật GĐTP như: Thế nào là có nghi ngờ về kết quả giám định hoặc có mâu thuẫn trong các kết luận giám định về cùng một vấn đề cần giám định hoặc có căn cứ cho rằng kết luận giám định lần đầu không chính xác; Giám định lại bao nhiêu lần thì không được yêu cầu giám định lại nữa;… Những vấn đề này cho đến nay vẫn chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản hướng dẫn thống nhất áp dụng, nên công tác GĐTP trong tố tụng hình sự nói riêng vẫn còn bộc lộ nhiều tồn tại, hạn chế, cần sớm được khắc phục, cụ thể:

Thứ nhất: Theo quy định tại khoản 2, Điều 29 Luật GĐTP: “Việc giám định lại được thực hiện trong trường hợp có căn cứ cho rằng kết luận giám định lần đầu không chính xác…”;  Khoản 2, Điều 159 BLTTHS: “Việc giám định lại được tiến hành khi có nghi ngờ về kết quả giám định hoặc có mâu thuẫn trong các kết luận giám định về cùng một vấn đề cần giám định. Việc giám định lại phải do người giám định khác tiến hành” ; Khoản 1 Điều 21 Nghị định 26/2005/NĐ-CP ngày 02/3/2005 của Chính phủ về Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự (viết tắc Nghị định 26/2005/NĐ-CP), quy định:“Việc định giá lại một phần hoặc toàn bộ tài sản được tiến hành theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng khi có nghi ngờ về kết quả định giá hoặc có mâu thuẫn giữa các kết luận định giá về giá của tài sản cần định giá…”

Từ thực tiễn áp dụng các quy định trên đã phát sinh một số vướng mắc sau:

Một là, phạm vi xác định đối tượng có quyền nghi ngờ về kết quả giám định hoặc cho rằng có mâu thuẫn trong các kết luận giám định về cùng một vấn đề cần giám định hoặc có căn cứ cho rằng kết luận giám định lần đầu không chính xác còn quá rộng, nên thực tế khi giữa các cơ quan tiến hành tố tụng cùng cấp nếu chưa có sự thống nhất nhau về kết luận giám định hoặc bị can, những người tham gia tố tụng khác yêu cầu thì cơ quan đã trưng cầu thường trưng cầu giám định lại vì không thể nêu rõ lý do để không chấp nhận yêu cầu của họ. Như vậy, có thể thấy bản Kết luận giám định là văn bản tố tụng rất quan trọng, ảnh hưởng tới việc kết luận một người có hành vi phạm tội hay không, mức độ nghiêm trọng như thế nào. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau, kết quả giám định không phải lúc nào cũng chính xác, khách quan, mà vẫn có thể có sai sót. Theo qui định tại Điều 158 BLTTHS, bị can, những người có liên quan có quyền trình bày những ý kiến của mình về kết luận giám định, có quyền yêu cầu giám định bổ sung hoặc giám định lại. Tại khoản 1 Điều 159 BLTTHS qui định như sau: “Việc giám định bổ sung được tiến hành trong trường hợp nội dung kết luận giám định chưa rõ, chưa đầy đủ hoặc khi phát sinh những vấn đề mới liên quan đến những tình tiết của vụ án đã được kết luận trước đó.” Trong khi đó, không phải bị can, người tham gia tố tụng nào cũng đều hiểu được nguyên tắc, phương pháp xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể (cộng lùi) khi tiến hành giám định. Chính lý do này dẫn đến việc họ cứ thực hiện quyền yêu cầu giám định lại, nghi ngờ giám định viên đã cộng sai các tỉ lệ, từ đó làm cho việc giải quyết vụ án nhiều trường hợp bị kéo dài quá thời gian luật định. Ví dụ: Ông Nguyễn Văn D được xác định có 03 tổn thương cơ thể (TTCT):

– Cụt 1/3 giữa cánh tay phải, tỷ lệ % TTCT là 61 – 65%.

– Nghe kém trung bình hai tai mức độ I, tỷ lệ % TTCT là 21 – 25%.

– Mù mắt trái chưa khoét bỏ nhãn cầu, tỷ lệ % TTCT là 41%

Áp dụng phương pháp cộng lùi, theo quy định tại Điều 4 Thông tư số 20/2014/TTLT- BYT ngày 12/6/2014 của Bộ Y tế, quy định tỷ lệ tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần, tổng tỷ lệ % TTCT của ông Nguyễn Văn D được tính như sau:

T1 = 65%,

T2 = (100 – 65) x 41/100% = 14,35%, làm tròn số thành 14,0 %.

T3 = (100 – 65 – 14,0) x 21/100% = 4,41 %, làm tròn số thành 4,0%.

Tổng tỷ lệ TTCT của ông Nguyễn Văn D là 65% + 14,0 % + 4 % = 83 %. Tỷ lệ TTCT của ông Nguyễn Văn D là 83 %. Chứ không phải là tỉ lệ % trung bình của các tổn thương cơ thể đó cộng lại 127% (63% + 43% + 41%). Hơn nữa, tỉ lệ % sức khỏe của người bình thường mặc định chỉ là 100%, nên không thể có con số 127% được.

Thực tiễn xét xử án hình sự cho thấy, không ít vụ án cả bị hại và bị cáo đều yêu cầu được giám định lại thương tật. Trong khi đó, pháp luật chưa quy định trường hợp nào được chấp nhận, và việc giám định lại được thực hiện bao nhiêu lần? Đây là vướng mắc rất cần sự hướng dẫn của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, để các cơ quan tiến hành tố tụng thống nhất áp dụng trong thực tiễn. Ví dụ, vụ tai nạn giao thông xảy ra hồi 18 giờ 45 phút 11/2013 tại km 389 + 600 Quốc lộ 1A thuộc địa bàn ấp 7,  xã Tâm Thuận Tây, huyện Châu Thành, tỉnh V, Nguyễn Thanh Hùng điều khiển xe mô tô gây tai nạn cho anh Lê Định điều khiển xe đạp chạy cùng chiều. Công an huyện Châu Thành trưng cầu giám định và kết luận tỉ lệ thương tật vĩnh viễn của người bị hại 27% sức khỏe. Trên cơ sở này, Hùng không bị xử lý hình sự. Tuy nhiên, anh Định cho rằng sức khỏe bị tổn hại nghiêm trọng mà tỷ lệ thương tật qua giám định chỉ có vậy là không thỏa đáng, nên anh yêu cầu được giám định lại, nhưng Công an huyện Châu Thành không chấp nhận và hồ sơ vụ án được chuyển sang Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Tại đây, Tòa án cho trưng cầu giám định lại thương tật của anh Định. Kết quả tỷ lệ thương tật vĩnh viễn của anh Định 36%, hồ sơ vụ án được chuyển về Công an huyện Châu Thành để xử lý theo pháp luật tố tụng hình sự. Tại đây, Nguyễn Thanh Hùng yêu cầu được giám định lại sức khỏe của người bị hại và được Công an huyện này chấp nhận. Nhưng bị hại lại kiên quyết từ chối vì cho rằng vụ tai nạn xảy ra đã hơn 7 tháng, các vết thương đều lành, giám định lại sẽ gây bất lợi cho họ… Về vấn đề này, vì pháp luật không quy định rõ ràng, cụ thể việc giám định lại nên rất dễ bị các cơ quan tố tụng áp dụng tùy tiện. Bên cạnh đó, pháp luật không quy định các đương sự được quyền yêu cầu giám định lại bao nhiêu lần, mà tất cả đều cơ quan tiến hành tố tụng vụ án đó quyết định.

Hai là, khi giám định mà người tham gia tố tụng với tư cách là người bị hại khác không đồng ý giám định lại thì có chấp nhận yêu cầu của họ hay không vì quy định của pháp luật không quy định rõ. Ví dụ, Sau khi uống rượu cùng với một số người bạn, khoảng 17 giờ ngày 15/11/2013 Trần Tuấn A. điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 72S9 – 8090 chạy phía sau xe mô tô biển kiểm soát 69C1 – 004.44 do Tăng Huỳnh Duyên điều khiển cùng tham gia giao thông trên đoạn đường Trần Cao Vân thuộc khu phố 6, phường 10, thành phố V. (Duyên là bạn gái của A.), lúc này khoảng cách giữa 02 xe chừng 05 mét, do có việc riêng cần giải quyết gấp, Duyên tăng ga điều khiển xe chạy nhanh hơn và vượt qua mặt chiếc xe Honda đang chạy cùng chiều phía trước bên phải, thấy vậy A. cũng tăng ga đuổi theo, khi xe của A. vượt lên bên trái gần ngang bằng với xe của Duyên, A nói: “Uống cà phê ở quán Sao nhé.”, Duyên chưa kịp trả lời thì bánh trước xe của A. đã va chạm vào gác chân phía trước bên trái xe mô tô của Duyên, làm cả 02 xe đều loạng choạng, xe của Duyên chạy thêm một đoạn khoảng 5 mét thì ngã xuống đường, riêng xe của A. lao sang trái đường đụng vào xe mô tô biển kiểm soát 51K9 – 177.06 do Thái Thanh Tú điều khiển, trên xe có chở anh Nguyễn Long Hải. Hậu quả Thái Thanh Tú bị gãy chân phải, nằm điều trị tại bệnh viện đa khoa thành phố V. đến ngày 30/11/2013 xuất viện, tỉ lệ thương tật qua giám định 20%; Nguyễn Long Hải bị đa chấn thương vùng đầu, sau đó tử vong ngày 16/11/2013 tại Bệnh viện Đa khoa thành phố V.; Tăng Huỳnh Duyên bị gãy hở xương đòn vai trái, gãy chân trái nằm điều trị tại Bệnh viện Đa khoa thành phố V. và bệnh viện Chợ Rẫy đến ngày 20/12/2013 xuất viện, 03 xe mô tô đều bị hư hỏng; kết quả xét nghiệm nồng độ cồn trong máu của Trần Tuấn A. là 50mg/100ml máu.

Riêng Tăng Huỳnh Duyên sau khi ra viện, phải thường xuyên đến bệnh viện đa khoa thành phố V. để tập vật lý trị liệu, nhưng Duyên kiên quyết từ chối giám định và có văn bản thể hiện nội dung không yêu cầu Trần Tuấn A. phải bồi thường bất cứ khoản chi phí nào mà Hằng đã bỏ ra để cấp cứu, điều trị, hồi phục sức khỏe cho chính mình cũng như chi phí sửa chữa xe Honda của Duyên bị hư hỏng nặng trong vụ tai nạn nói trên. Do việc từ chối giám định của người bị hại Duyên, nên Trần Tuấn A. chỉ bị truy tố và xét xử theo khoản 1 Điều 202 BLHS (mức án tù từ 06 tháng đến 05 năm), mà lẽ ra, nếu căn cứ trên hồ sơ bệnh án điều trị của nạn nhân Duyên, thì A. phải bị truy tố và xét xử theo khoản 2 Điều 202 BLHS (mức án tù từ 03 năm đến 10 năm) là mới phù hợp.

Ba là, khi giám định lại thì cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng kết quả giám định nào (kết quả giám định lần đầu hay kết quả giám định lại hoặc kết quả giám định lại lần thứ hai) để làm căn cứ truy tố và xét xử? Đây cũng là vướng mắc. Xin nêu hai trường hợp đã xảy ra trong thực tiễn xét xử, cụ thể như sau:

Trường hợp thứ nhất: Đặng Văn V dùng gạch xây tường rào ném trúng vào vai của Ch., tỉ lệ thương tích qua giám định 11%, các cơ quan tiến hành tố tụng huyện L khởi tố, điều tra, truy tố V về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại khoản 2 Điều 104 BLHS. Quá trình điều tra bị can và luật sư bào chữa cho V đều không đồng ý với kết quả giám định của Trung tâm pháp y tỉnh T và yêu cầu giám định lại. Cơ quan điều tra ra quyết định trưng cầu Phân viện kỹ thuật hình sự Bộ Công an giám định lại tỷ lệ thương tích của Ch., kết quả giám định lại kết luận Ch. chỉ bị thương tích 10%. Như vậy nếu căn cứ vào kết quả giám định của Trung tâm pháp y tỉnh T thì bị can A sẽ bị khởi tố về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại khoản 2 Điều 104 BLHS (mức hình phạt tù từ 2- 7 năm); nếu căn vào kết quả giám định của Phân viện kỹ thuật hình sự Bộ Công an thì bị can V chỉ bị khởi tố về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại khoản 1 Điều 104 BLHS (mức hình phạt tù từ 06 tháng đến 3 năm).

Trường hợp thứ hai: Do có mâu thuẫn từ trước, Nguyễn Hoàng L. dùng cọc tre có đường kính 04 cm, dài 1,5 mét đánh Q. gây thương tích 10%, các cơ quan tiến hành tố tụng khởi tố L. về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại khoản 1 Điều 104 BLHS, quá trình điều tra bị hại Q. không đồng ý với kết quả giám định của Trung tâm pháp y tỉnh B và yêu cầu giám định lại. Chấp thuận yêu cầu này, Cơ quan điều tra công an huyện G ra quyết định trưng cầu Phân viện kỹ thuật hình sự Bộ Công an giám định lại tỷ lệ thương tích của Q., kết quả giám định lại xác định Q. bị thương tích tỉ lệ 11%. Như vậy nếu căn cứ vào kết quả giám định của Trung tâm pháp y tỉnh B thì bị can L. sẽ bị truy tố, xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại khoản 1 Điều 104 BLHS, nếu căn vào kết quả giám định của Phân viện kỹ thuật hình sự Bộ Công an thì L. chỉ bị truy tố và xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại khoản 2 Điều 104 BLHS.

Thực tế trên cho thấy, rõ ràng các kết quả giám định có ảnh hưởng rất lớn đến quyền lợi của cả bị cáo lẫn bị hại, khi nó là căn cứ để khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Theo quy định tại khoản 1 Điều 30 Luật GĐTP: “Trong trường hợp có sự khác nhau giữa kết luận giám định lần đầu và kết luận giám định lại về cùng một nội dung giám định thì việc giám định lại lần thứ hai do người trưng cầu giám định quyết định. Việc giám định lại lần thứ hai phải do Hội đồng giám định thực hiện.” Tuy nhiên, việc lập Hội đồng giám định trong những trường hợp này là rất khó khăn trong thực tế, vì theo quy định Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ quản lý về lĩnh vực cần giám định quyết định thành lập Hội đồng để thực hiện giám định lại lần thứ hai. Hội đồng giám định gồm có ít nhất 03 thành viên là những người có chuyên môn cao và có uy tín trong lĩnh vực cần giám định. Hội đồng giám định hoạt động theo cơ chế giám định tập thể…Nhưng kết luận giám định lại lần thứ hai có phải là kết quả cuối cùng chưa? Vấn đề này, Luật GĐTP cũng không quy định rõ, mà theo khoản 2 Điều 30 Luật GĐTP chỉ quy định:“Trong trường hợp đặc biệt, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định việc giám định lại sau khi đã có kết luận của Hội đồng giám định.”

Theo quan điểm của người viết, giám định pháp y là lĩnh vực đặc thù, không thể áp dụng cơ chế hành chính theo kiểu kết luận của tổ chức cao nhất là đáng tin cậy và có quyền phủ quyết các kết luận khác. Trong lĩnh vực giám định pháp y, việc hai tổ chức giám định cùng một thương tật và đưa ra kết luận khác nhau về tỉ lệ mà không có độ cách biệt lớn là chấp nhận được nếu mỗi kết luận giám định thực hiện ở những thời điểm khác nhau. Nói cách khác, giám định viên chịu trách nhiệm về kết luận của mình. Còn việc cân nhắc, xem xét tính đúng đắn, xác thực của các kết luận đó là quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng vụ án đó. Bởi suy cho cùng, kết luận giám định pháp y cũng là nguồn chứng cứ. Việc xem xét đánh giá chứng cứ thế nào để đảm bảo tính chính xác, khách quan thuộc về kỹ năng của Hội đồng xét xử, mà ở đó, Hội đồng xét xử xem xét tính chính xác, tính khoa học của từng kết luận trong mối quan hệ với các tài liệu khác có liên quan của vụ án. Pháp luật tố tụng còn quy định, Tòa án có thể triệu tập giám định viên tham gia tố tụng tại phiên tòa, làm rõ cơ sở khoa học mà giám định viên đưa ra kết luận giám định.

Thứ hai:  Về thời hạn tiến hành giám định, Luật GĐTP, BLTTHS, BLTTDS hiện hành đều không quy định giới hạn về thời hạn giám định, nên trong thực tế có rất nhiều trường hợp do các nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau mà các cơ quan, tổ chức giám định không có kết luận hoặc trả lời cơ quan trưng cầu giám định, người yêu cầu giám định , mà thời gian chờ đợi rất dài kể từ ngày nhận được quyết định trưng cầu, yêu cầu giám định. Thậm chí hết thời gian điều tra, quá thời gian phải xem xét khởi tố theo luật định nhưng vẫn chưa có kết quả giám định, dẫn đến việc cơ quan tố tụng không thể ban hành các quyết định tố tụng khác để giải quyết vụ án được. Hơn nữa, do chưa quy định về thời hạn giám định, trong khi thời hạn điều tra, truy tố được quy định cụ thể theo từng loại tội phạm dẫn đến nhiều trường hợp Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát vi phạm thời hạn tố tụng và việc giải quyết vụ án bị kéo dài do phải chờ kết luận giám định. Đây là trở ngại riêng đối với hoạt động tố tụng hình sự, đôi khi gây bức xúc và ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân đối với các cơ quan tố tụng, cá biệt có những trường hợp tạo ra sự tiêu cực trong hoạt động giám định vì hoạt động điều tra đòi hỏi sự nhanh chóng, kịp thời trong khi cơ quan giám định có thể tùy tiện về thời gian trong tiến hành giám định. Nhưng tại điểm a khoản 2 Điều 17 Nghị định 110/2013/NĐ-CP, quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã (viết tắc Nghị định 110/2013/NĐ-CP); Nghị định 67/2015/NĐ-CP ngày 24/8/2015 của Chính phủ, sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24 tháng 9 năm 2013 của chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã (viết tắc Nghị định 67/2015/NĐ-CP) có quy định: “Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau: a) Không thực hiện giám định đúng thời hạn yêu cầu mà không có lý do chính đáng;” Theo quan điểm của người viết, việc quy định xử phạt này là thiếu cơ sở pháp lý, bởi thực tế không tìm thấy văn bản nào quy định thời hạn cụ thể cho từng loại đối tượng cần giám định. Hơn nữa, thời hạn mỗi trường hợp trưng cầu, yêu cầu giám định cũng khác nhau và hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của phía trưng cầu, yêu cầu giám định. Do vậy sẽ là không phù hợp với thực tế, nếu như cơ quan nhà nước có thẩm quyền vẫn chưa có văn bản quy định thống nhất cụ thể về thời hạn giám định mà lại quy định xử phạt vi phạm hành chính với lý do thực hiện giám định không đúng thời hạn yêu cầu. Để khắc phục bất cập này, khi sửa đổi, bổ sung Luật GĐTP kiến nghị cần quy định về thời hạn giám định tư pháp.

Thứ ba: Đối tượng phải tiến hành giám định hiện Luật GĐTP cũng chưa quy định cụ thể.Theo quy định tại khoản 3 Điều 155 BLTTHS, bắt buộc phải trưng cầu giám định khi cần xác định: Nguyên nhân chết người, tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khoẻ hoặc khả năng lao động; Tình trạng tâm thần của bị can, bị cáo trong trường hợp có sự nghi ngờ về năng lực trách nhiệm hình sự của họ; Tình trạng tâm thần của người làm chứng hoặc người bị hại trong trường hợp có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức và khai báo đúng đắn đối với những tình tiết của vụ án; Tuổi của bị can, bị cáo, người bị hại, nếu việc đó có ý nghĩa đối với vụ án và không có tài liệu khẳng định tuổi của họ hoặc có sự nghi ngờ về tính xác thực của những tài liệu đó; Chất độc, chất ma tuý, chất phóng xạ, tiền giả. Việc quy định có tính liệt kê như trên, theo quan điểm của người viết, chưa thể hiện tính bao quát được hết các đối tượng bắt buộc cần phải có kết luận của các chuyên gia và nhà chuyên môn như: vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ, chất nổ, chất cháy, kể cả trường hợp người bị hại trong các vụ án cố ý gây thương tích, tai nạn giao thông như trên đã đề cập cũng cần phải được giám định, vì nếu không tiến hành trưng cầu giám định một cách đầy đủ thì chắc chắn rằng việc giải quyết vụ án sẽ không triệt để, nếu không muốn nói là bỏ sót, lọt tội phạm. Do vậy, khi sửa đổi, bổ sung Luật GĐTP thiết nghĩ cần sớm bổ sung các đối tượng này vào quy định bắt buộc phải trưng cầu giám định.

 Mặt khác, theo quy định hiện hành thì việc định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản quy định tại Nghị định 26/2005/NĐ-CP  là một trong những căn cứ để cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng xem xét, giải quyết những vấn đề có liên quan đến tài sản trong tố tụng hình sự, mà không thực hiện theo quy định của Luật GĐTP. Điều đáng chú ý, quy định tại Điều 6 và Điều 7 của Nghị định 26/2005/NĐ-CP, người tiến hành định giá tài sản có thể không bắt buộc là giám định viên nên cũng không có các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật đối với giám định viên. Theo quan điểm của người viết, việc quy định như vậy là chưa hợp lý, bởi việc xác định chính xác giá trị của tài sản cũng đòi hỏi phải có sự hiểu biết như chuyên gia về giá, tài sản, đồ vật đó. Hoạt động này có đặc điểm chung của công tác giám định tư pháp, nên cũng cần coi đây là hoạt động giám định tư pháp, việc định giá trong tố tụng hình sự cũng cần được coi là hoạt động giám định tư pháp hình sự do giám định viên thực hiện và chịu sự điều chỉnh chung của các chế định về giám định tư pháp. Hơn nữa, theo quy định tại Điều 26 của Nghị định 26/2005/NĐ-CP: “Thành viên của Hội đồng định giá tài sản do thiếu trách nhiệm hoặc cố ý vi phạm quy định của Nghị định này thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.” Nhưng từ khi Nghị định này có hiệu lực thi hành cho đến nay, cơ quan nhà nước có thẩm quyền vẫn chưa ban hành quy định bị coi là vi phạm hành chính lĩnh vực này và bị xử lý hành chính, do vậy, nếu thành viên của Hội đồng định giá tài sản mà vi phạm quy định của Nghị định 26/2005/NĐ-CP mà phải bị xử phạt vi phạm hành chính thì sẽ căn cứ vào đâu để ra quyết định xử phạt? Trong khi Nghị định số 110/2013/NĐ-CP và Nghị định 67/2015/NĐ-CP, mà theo đó, Điều 17 của Nghị định 110/2013/NĐ-CP có quy định hành vi vi phạm của người giám định tư pháp và hình thức xử phạt vi phạm hành chính. Đây rõ ràng là một bất cập đang tồn tại trong lĩnh vực giám định, thiết nghĩ cần sớm khắc phục nhằm bảo đảm tính công bằng trong thực thi pháp luật trong tình hình hiện nay, bởi dù là thành viên của Hội đồng định giá tài sản theo quy định Nghị định 26/2005/NĐ-CP hay là giám định viên tư pháp theo quy định của Luật GĐTP thì cũng phải sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn đề có liên quan đến hoạt động điều tra, truy tố, xét xử,  tuân thủ đúng quy định của pháp luật, do vậy, mọi hành vi vi phạm tùy theo tính chất, mức độ, hậu quả xảy ra đều có thể bị xử lý, có như vậy kỷ luật, kỷ cương trong thi hành công vụ nói chung, trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp nói riêng mới được giữ vững.

Tóm lại: Kết luận giám định được pháp luật tố tụng hình sự ghi nhận là một trong những nguồn chứng cứ quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án. Kết luận giám định đúng đắn giúp cho việc điều tra, truy tố, xét xử các vụ án được chính xác, khách quan, đúng pháp luật, góp phần quan trọng bảo đảm trật tự an toàn xã hội, ổn định kinh tế – chính trị của đất nước. Quá trình áp dụng pháp luật trong lĩnh vực giám định tư pháp, cụ thể việc giám định lại, quyền yêu cầu giám định lại,… thực tế áp dụng còn nhiều vướng mắc, thiết nghĩ cần có hướng dẫn để xác định rõ như thế nào là có nghi ngờ về kết quả giám định hoặc có mâu thuẫn trong các kết luận giám định về cùng một vấn đề cần giám định hoặc có căn cứ cho rằng kết luận giám định lần đầu không chính xác; Giám định lại bao nhiêu lần thì không được yêu cầu giám định lại nữa; Kết quả giám định nào để các cơ quan tiến hành tố tụng làm căn cứ để điều tra, truy tố, xét xử nhất là trong lĩnh vực tố tụng hình sự, rất cần sự hướng dẫn thống nhất chung của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Th.S Lê Văn Sua

Xếp hạng
5/5

Chia sẻ

Share on facebook
Share on twitter
Share on linkedin
Share on pinterest
Share on tumblr

Tư vấn trực tuyến

Bài viết liên quan

Giải đáp thắc mắc

Tội huỷ hoại tài sản nhà nước

Tội hủy hoại tài sản nhà nước được quy định cụ thể trong Bộ luật Hình sự và có thể bị xử lý nghiêm theo pháp luật. Dưới đây là một số thông tin chung về tội hủy hoại tài sản: Định nghĩa: Tội hủy hoại tài sản là hành

Xem chi tiết »

Thời hạn tạm giam trong vụ án hình sự?

Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, thời hạn tạm giam bị can để điều tra không quá: 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng. 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng. 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội

Xem chi tiết »

Làm gì khi bị lừa đảo qua mạng

Luật sư tư vấn khi bị lừa đảo quan mạng, bạn cần bình tĩnh và thực hiện các bước sau: Dừng ngay việc gửi tiền hoặc thực hiện bất kỳ hành động nào khác theo yêu cầu của kẻ lừa đảo. Chặn tất cả các liên lạc từ kẻ lừa

Xem chi tiết »

ĐOÀN LUẬT SƯ HÀ NỘI

CÔNG TY LUẬT DRAGON

Giám đốc – Thạc sĩ Luật sư:  Nguyễn Minh Long

Công ty luật chuyên:

Hình sự – Thu hồi nợ – Doanh nghiệp – Đất Đai – Trọng tài thương mại – Hôn nhân và Gia đình.

  • Văn phòng luật sư quận Cầu Giấy:  Phòng 6 tầng 14 tòa nhà VIMECO đường Phạm Hùng, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
  • Văn phòng luật sư quận Long Biên: Số 24 ngõ 29 Phố Trạm, Phường Long Biên, Quận Long Biên, Hà Nội
  • Điện thoại: 1900 599 979 / 098.301.9109Email: dragonlawfirm@gmail.com

Hệ thống Website:

#luatsubaochua, #luatsutranhtung, #luatsuhinhsu, #luatsugioibaochua, #luatsubaochuahanoi, #luatsubaochuahaiphong

Điều luật tham khảo

Văn bản luật

Thủ tục liên quan đến thuê luật sư

Chi phí thuê luật sư bào chữa vụ án hình sự

Luật hình sự là quan hệ xã hội phát sinh giữa Nhà nước và người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội khi các chủ thể này thực hiện tội phạm. Theo quy định tại Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, những người có quyền nhờ luật sư bào chữa bao gồm:

  • Người bị bắt.
  • Người bị tạm giữ.
  • Bị can.
  • Bị cáo.
  • Bị hại.
  • Nguyên đơn dân sự.
  • Bị đơn dân sự.
  • Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.

Ngoài những đối tượng trên, theo quy định tại Điều 27 Luật Hình sự năm 2012, người đại diện hoặc người thân thích của người bị buộc tội cũng có quyền được nhờ luật sư bào chữa cho người bị buộc tội.

Quá trình tố tụng bắt đầu từ giai đoạn điều tra – truy tố – xét xử – thi hành án. Bất kể một cá nhân, đại diện, tổ chức nào ngay khi nhận được giấy mời, giấy triệu tập của cơ quan điều tra hoặc tại bất kỳ thời điểm nào trong quá trình tố tụng nêu trên đều có quyền và cần thiết phải nhờ sự hỗ trợ của luật sư.

Tuy nhiên, vì quá trình tố tụng kéo dài đói hỏi người bảo vệ quyền lợi cho thân chủ phải là người đồng hành cùng thân chủ trong xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự. Do đó, thời điểm tốt nhất để có thể nhờ luật sư bào chữa là ngay khi nhận được giấy triệu tập từ cơ quan điều tra. Vì, khi đó, luật sư có thể can thiệp pháp lý và bảo vệ cho thân chủ ngay từ giai đoạn đầu tiên.

Luật sư hình sự sẽ giúp ích gì cho bạn?

Luật sư hình sự tham gia vào vụ án hình sự trong suốt quá trình tố tụng từ sơ thẩm đến phúc thẩm hoặc có thể trong giai đoạn tái phẩm hoặc giám đốc thẩm với vai trò là người được nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự ủy quyền tham gia vụ án hoặc là người bảo vệ quyền và lợi ích cho thân chủ.

Tham gia vào ngay từ giai đoạn xác minh ban đầu, khi có giấy triệu tập và trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, luật sư hình sự có những nhiệm vụ sau:

  • Nghiên cứu, xác minh, thu thập chứng cứ theo quy định pháp luật để bảo vệ thân chủ. Đây là một trong những quyền và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 73 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
  • Đóng vai trò là người bảo vệ cho thân chủ tại những phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Giúp phiên tòa có cái nhìn khách quan hơn về động cơ, hoàn cảnh của thân chủ.
  • Luật sư hình sự là người am hiểu pháp luật, vận dụng những kỹ năng của một người luật sư, linh hoạt, mềm dẻo trong quá trình làm việc với cơ quan điều tra, cơ quan tiến hành tố tụng, giúp bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho thân chủ của mình.
  • Luật sư hình sự sẽ là người tư vấn đưa ra những giải pháp tốt nhất, đảm bảo đúng quy định pháp luật cho thân chủ của mình.

Vì sao bị can/bi cáo nên nhờ/thuê luật sư hình sự ngay từ ban đầu?

  • Từ khi bị triệu tập, nghi vấn phạm tội: có thể thuê luật sư ngay từ đầu để bảo vệ quyền lợi, có thể bị hình sự hóa trong quan hệ hình sự trong quá trình điều tra xét xử.
  • Giai đoạn tạm giam điều tra: Luật sư tiếp xúc trực tiếp với bị can/thân chủ hỏi cung, đối chất, đề xuất, kiến nghị tới cơ quan tiến hành tố tụng, yêu cầu họ thực hiện đúng quy định pháp luật để bảo cho thân chủ.
  • Tham gia bảo vệ (bào chữa) cho thân chủ tại những phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Giúp phiên tòa có cái nhìn khách quan hơn về động cơ, hoàn cảnh của thân chủ.
  • Luật sư hình sự là người am hiểu pháp luật, vận dụng những kỹ năng của một người luật sư, linh hoạt, mềm dẻo trong quá trình làm việc với cơ quan điều tra, cơ quan tiến hành tố tụng, tranh tụng giúp bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho thân chủ của mình.
  • Luật sư hình sự sẽ là người tư vấn đưa ra những giải pháp tốt nhất, đảm bảo đúng quy định pháp luật cho thân chủ của mình.

Đối với người bị hại thì Luật sư hình sự sẽ giúp ích những gì?

  • Luật sư thu thập chứng cứ
  • Tư vấn pháp luật hình sự cho người bị hại hiểu được hành vi của bi can/bị cáo biết được tội danh mà cơ quan điều tra khởi tố với người phạm tội đã đúng hay chưa
  • Giúp cho người bị hại soạn thảo các đơn từ kiến nghị để việc khởi tố/truy tố đối với bị can gây ra thương tích, gây ra thiệt hại cho người bị hại là “đúng người đúng tội”
  • Vấn đề về bồi thường: Luật sư tư vấn soạn thảo tính toán mức bồi thường để đưa ra yêu cầu xém xét bồi thường.

Tiêu chí để lựa chọn dịch vụ luật sư hình sự là gì?

Thông thường, mọi người có xu hướng lựa chọn luật sư thông qua quen biết vì cho rằng luật sư thông qua quen biết sẽ có độ tín nhiệm cao hơn hoặc là và có thể “nhờ vả” được. vậy đây có phải là một tiêu chí để lựa chọn luật sư?

Theo quy định tại quy tắc số 5 Quyết định số 201/QĐ-HĐLSTQ của liên đoàn luật sư Việt Nam về quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam thì một trong những quy tắc hành nghề chính là bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng, đây là một trong những quy tắc mà bất kì luật sư nào cũng thuộc nằm lòng.

Hơn nữa, hiện nay cuộc cách mạng cải cách tư pháp đã loại bỏ rất nhiều tiêu cực trong hoạt động tố tụng, quá trình xét xử, theo thông tư liên tịch số 03/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP quá trình xét xử phải được ghi âm ghi hình đảm bảo sự minh bạch rõ ràng tránh những hoạt động, hành vi tiêu cực trong xét xử.

Bất kỳ luật sư nào cũng có nghĩa vụ bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích cho thân chủ của mình, và quy trình hoạt động tố tụng cũng đã được quy định chặt chẽ hơn, các hoạt động tiêu cực cũng từ đó bị triệt tiêu dần. Do đó, yếu tố người thân người quen không phải là một trong những yếu tố, tiêu chí để lựa chọn luật sư, mà tiêu chí để lựa chọn luật sư bao gồm những tiêu chí sau:

  • Luật sư có chuyên môn trong lĩnh vực hình sự, đây là một yếu tố quan trọng của một luật sư hình sự vì phải hiểu rõ lý luận pháp luật, cập nhật thường xuyên những thay đổi của pháp luật, am hiểu cơ chế hoạt động điều tra thì mới có thể bảo vệ tốt cho thân chủ của mình.
  • Luật sư có kinh nghiệm trong hoạt động tố tụng hình sự, trong thực tiễn và tham gia tố tụng trong nhiều vụ án vì càng tham gia nhiều vụ án thì càng tích lũy được nhiều bản lĩnh, kinh nghiệm thâm niên lâu có thể giải quyết được không chỉ những vấn đề pháp luật mà vấn đề quan hệ với các cơ quan tố tụng, cơ quan điều tra.
  • Thấu hiểu hoàn cảnh, động cơ, lý do, hoàn cảnh của thân chủ ví dụ như: do hoàn cảnh khó khăn, do nền tảng gia đình không tốt, do rơi vào tình thế bắt buộc, … từ đó mới xây dựng được phương án, cung cấp dịch vụ tốt nhất cho thân chủ.
  • Chi phí dịch vụ luật sư, tùy vào từng trường hợp, vụ việc cụ thể chi phí luật sư sẽ khác nhau, có những vụ án có tính chất phức tạp, thì ngoài chi phí luật sư còn nhiều chi phí khác như chi phí giám định thương tích thương tật, giám định tự thi, chi phí dựng hiện trường, … Do đó, Tùy vào từng vụ việc cụ thể và hoàn cảnh của thân chủ để đưa ra mức phí phù hợp.

Phí dịch vụ luật sư hình sự được tính như thế nào?

Một trong những nguyên tắc hành nghề luật sư phải thông báo rõ ràng mức thù lao, chi phí cho khách hàng, tuy nhiên, vì tính chất nhạy cảm của vụ án hình sự, chi phí dịch vụ hình sự không giống như các chi phí dịch vụ luật sư khác, không có mức phí cố định, rõ ràng.

Như đã đề cập ở trên, tùy vào từng trường hợp cụ thể của vụ việc mà phí dịch vụ luật sư sẽ khác nhau. Chi phí luật sư trong vụ án hình sự rất phức tạp, tùy vào từng sự việc, luật sư đưa ra mức chi phí cụ thể, do đó, quý khách hàng cần phải gặp trực tiếp với luật sư của công ty luật để có thể trao đổi và đánh giá tính phức tạp của vụ việc mới có thể đưa ra được mức phí phù hợp

Ngoài chi phí dịch vụ luật sư, còn có những khoản phí riêng khác, không nằm trong chi phí dịch vụ luật sư như:

  • Chi phí giám định thương tật
  • Chi phí cho người làm chứng
  • Chi phí bồi thường dân sự

Có cam kết kết quả trong vụ án hình sự không?

Công ty luật Dragon của chúng tôi đảm bảo thực hiện công việc theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định và đảm bảo tuân thủ đúng 27 quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam theo quy định tại Quyết định số 201/QĐ-HĐLSTQ ngày 13/12/2019 của Hội Đồng luật sư toàn quốc.

Công ty chúng tôi luôn đặt quyền lợi khách hàng lên đầu, cam kết giữ bí mật những thông tin liên quan đến khách hàng, đem những hiểu biết, kinh nghiệm trong hoạt động tố tụng hình sự, sự tận tâm, nhiệt tình của mình đến cho khách hàng.

Trên đây là toàn bộ nội dung bài giới thiệu dịch vụ luật sư hình sự và hướng dẫn cách chọn luật sư hình sự. Quý khách hàng nếu có nhu cầu sử dụng dịch vụ luật sư hình sự của công ty chúng tôi hoặc có thắc mắc về chính sách dịch vụ luật sư của công ty vui lòng liên hệ hotline 098.301.9109 để được tư vấn và hỗ trợ kịp thời.

Luật Dragon nhận hỗ trợ “tư vấn” trực tuyến 24/24 qua các hình thức như sau:

  • Tư vấn pháp luật qua EMAIL: congtyluatdragon@gmail.com
  • Tư vấn pháp luật qua FACEBOOK: Fanpage Luật Dragon
  • CÔNG TY LUẬT DRAGON

    LUÔN ĐỒNG HÀNH CÙNG QUÝ KHÁCH!

    TRỤ SỞ CHÍNH CÔNG TY LUẬT DRAGON:

    Add: Phòng 14.6, Tòa nhà Vimeco, Lô 9E, Đường Phạm Hùng, Quận Cầu Giấy, Hà Nội.

    Tel: 1900. 599. 979

    VĂN PHÒNG ĐẠI DIỆN LUẬT SƯ TẠI QUẬN LONG BIÊN:

    Add: Số 24 ngách 29 Phố Trạm phường Long Biên, quận Long Biên, thành phố Hà Nội

    Tel : 1900. 599. 979

    VĂN PHÒNG LUẬT SƯ TẠI HẢI PHÒNG:

    Add: Số 102, Lô 14 đường Lê Hồng Phong, Phường Đằng Lâm,Quận Hải An, Hải Phòng.

    Tel : 1900. 599. 979

    VĂN PHÒNG LUẬT SƯ TẠI TP HCM:

    Tel : 1900. 599. 979

    =====================

    BAN GIÁM ĐỐC CÔNG TY LUẬT DRAGON:

    Luật Sư Nguyễn Minh Long

    Điện Thoại: 098.301.9109

    Email: dragonlawfirm@gmail.com

Quy trình giải quyết vụ án hình sự

Từ khóa: thuê luật sư vụ án hình sự,Giá thuê luật sư,Chi phí thuê luật sư vụ án hình sự,Có nên thuê luật sư,Chi phí thuê luật sư có được bồi thường,Hợp đồng thuê luật sư,Chi phí thuê luật sư bào chữa, chi phí thuê luật sư bào chữa

Luật sư bào chữa giỏi tại Hải Phòng

Xã hội càng phát triển, nghề luật sư càng có vai trò quan trọng. Hằng ngày, nhiều tranh chấp, kiện tụng phát sinh và luật sư phải đứng ra tranh đấu để bảo vệ lẽ phải, công lý.

Bảo vệ lẽ phải

Luật sư Nguyễn Minh Long ở Văn phòng luật sư Dragon (Chi nhánh Hải Phòng) đã có gần 10 năm gắn bó với nghề. Giống như nhiều đồng nghiệp khác, công việc trong ngày của anh khá bận rộn và luôn phải di chuyển. Từ việc xếp lịch gặp khách hàng, lịch làm việc tại tòa án, đi thu thập chứng cứ… đều được anh thực hiện một cách cẩn trọng. Nhiều khi các luật sư còn trở thành chuyên gia tâm lý giúp thân chủ và người nhà yên tâm, tin tưởng vào lẽ phải.

Luật sư Long cho biết: “Nhiệm vụ của chúng tôi là bảo vệ công lý và lẽ phải. Vì vậy, mỗi vụ việc đều phải được tìm hiểu một cách kỹ lưỡng, chính xác, mất nhiều thời gian, công sức. Chỉ cần một sai sót cũng có thể dẫn đến những hậu quả khó lường”.

Giữ tâm trong sáng

Luật sư Long chia sẻ, hơn 10 năm gần đây, xã hội, con người có nhiều thay đổi, phát sinh nhiều mâu thuẫn phức tạp. Các vụ án liên quan đến kinh tế, hình sự, tranh chấp đất đai, hôn nhân – gia đình xảy ra nhiều hơn, phức tạp hơn. Vì thế, công việc của giới luật sư cũng vất vả gấp nhiều lần. Tuy nhiên, anh quan niệm phải luôn giữ tâm trong sáng để mỗi vụ việc đều được xử lý chính xác, theo đúng pháp luật. Nhiều lúc, các luật sư còn trở thành chuyên gia tư vấn  miễn phí.

Năm 2012, luật sư Long nhận tư vấn thủ tục ly hôn cho một phụ nữ ngoài 50 tuổi ở Quận Hồng Bàng. Do người chồng làm thợ xây nên hay đi nhiều nơi, có quan hệ phức tạp, về nhà thường chửi mắng vợ con. Không chịu nổi tình cảnh này, người vợ quyết định ly hôn. Qua tiếp xúc và tìm hiểu câu chuyện, anh Phán nhận thấy vẫn có cơ hội cứu vãn cuộc hôn nhân này. Bằng vốn kinh nghiệm qua từng vụ án và đời sống thường ngày, anh phân tích, giảng giải để người phụ nữ kia hiểu được điều hơn, thiệt. Lúc đầu, người phụ nữ này không nghe mà cương quyết đưa chồng ra tòa. Tuy nhiên, sau nhiều lần tiếp xúc, động viên, phân giải, họ đã chữa lành được vết thương, bỏ qua những lỗi lầm để hàn gắn trở lại.

Một số người vẫn hay nghĩ luật sư là nghề có nhiều quan hệ, kiếm được nhiều tiền nhưng thực tế những khó khăn, vất vả chỉ có người trong nghề mới hiểu hết. Để có thể trở thành một luật sư phải trải qua một thời gian dài học tập và đào tạo. Theo quy định, ngoài tấm bằng cử nhân, luật sư phải qua lớp đào tạo kỹ năng hành nghề luật sư, thời gian tập sự và thi qua kỳ thi kết thúc tập sự. Thời gian này tối thiểu là 6 năm hoặc có thể kéo dài hơn. Có người theo đuổi cả chục năm mới trở thành một luật sư.

Luật sư Long cho biết: “Công việc vất vả lắm nhưng thu nhập của anh em luật sư cũng chỉ đủ sống. Nhiều khi gặp trường hợp khó khăn, người cao tuổi, gia đình chính sách, chúng tôi chỉ làm giúp chứ không nhận phí. Gặp người tốt, sau khi tư vấn hay hoàn tất vụ việc thì họ đến có lời cảm ơn. Nhưng cũng có trường hợp mình thấy vấn đề của họ khiếu nại là sai, phân tích để nhận ra lẽ phải thì họ phản ứng ra mặt, thậm chí còn có những lời nói không đúng mực. Dù vậy, chúng tôi vẫn luôn giữ vững cái tâm với nghề”.

Công việc vất vả nên không phải ai cũng gắn bó được với nghề. Vì thế, người trẻ thường ít chọn học luật và đầu tư thời gian, chất xám để trở thành luật sư. Hiện nay, Hải Phòng có hơn 100 luật sư đang hành nghề, trong đó có khoảng 30 người là người cao tuổi, đã nghỉ hưu. Chỉ có tình yêu nghề mới giúp họ gắn bó với nghề luật sư trong thời gian dài. Mặc dù khó khăn là thế nhưng các luật sư như anh Long  luôn tin rằng nghề luật sư sẽ có triển vọng trong tương lai vì góp phần bảo đảm công bằng xã hội.

Văn phòng luật sư Dragon Hải Phòng

Khi nào cần thuê luật sư bào chữa

Thuê luật sư là việc người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị buộc tội, bị can, bị cáo và người thân thích của họ là cha, mẹ, vợ, con, ông, bà… thuê luật sư bào chữa cho trường hợp của gia đình nhà mình

Vai trò của Luật sư, luật sư tham gia vụ án hình sự với vai trò là người bào chữa, khi thực hiện bào chữa cho người bị buộc tội, người bị tạm giữ, người bị tạm giam, bị can, bị cáo trong tất cả các giai đoạn từ Điều tra vụ án, khởi tố vụ án, Truy tố vụ án và xét xử vụ án, luật sư sẽ thực hiện các quyền bào chữa để bảo chữa cho các bị can, bị cáo.

Thuê luật sư bào chữa cho người bị bắt là trường hợp người bị tình nghi hay còn gọi là nghi can có thể bị bắt quả tang hoặc bị tạm giữ song bắt hoặc bị mời về làm việc tại trụ sở cơ quan điều tra song bắt, trong tường hợp này người bị bắt có quyền thuê luật sư để bào chữa cho mình. Việc luật sư tham gia bào chữa từ giai đoạn này là hết sức cần thiết vì tham gia ngay từ ban đầu sẽ bảo đảm được quyền của người bị bắt cũng như làm sáng tỏ các sự kiện khách quan của vụ án

Thuê luật sư bảo chữa cho bị can khi phạm tội Khi một ai đó có hành vi phạm tội đã bị cơ quan Cảnh sát điều tra, cơ quan Công an khởi tố vụ án và khởi tố bị can, lúc đó người bị khởi tố trở thành bị can và có quyền mời luật sư bào chữa cho mình để tham gia vào vụ án. Luật sư khi tham gia bào chữa cho bị can sẽ giúp đỡ bị can về mặt pháp luật, sử dụng các biện pháp cần thiết và hợp pháp để bảo vệ bị can. Quá trình bào chữa của luật sư cho bị can từ khi bị mời lên làm việc, khi bị khởi tố tại cơ quan Điều tra, khi bị Viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền truy tố bị can bằng Bản cáo trạng và cho đến khi Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử. nói như vậy không có nghĩa là luật sư sẽ chấm dứt tư cách bào chữa cho bị can mà tư cách của bị can được chuyển sang thành tư cách Bị cáo.

Thuê luật sư bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa: Khi một bị can hay người bị buộc tội bị Tòa án nhân dân có thẩm quyền có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì lúc đó được chuyển sang một tư cách mới là tư cách bị cáo, Luật sư người bào chữa tiếp tục bào chữa cho bị cáo trong toàn bộ quá trình xét xử vụ án ở giai đoạn sơ thẩm hoặc phúc thẩm nếu bị cáo có kháng cáo và tiếp tục mời luật sư bào chữa cho mình. Luật sư bào chữa cho bị cáo có những quyền và nghĩa vụ nhất định, tư vấn và hỗ trợ pháp lý cũng như trao đổi với bị cáo để sao cho bào chữa cho bị cáo được tốt nhất.

Thuê luật sư tham gia vụ án hình sự là trường hợp đã xác định một vụ án hình sự, vụ án có thể hình thành từ giai đoạn khởi tố vụ án, khởi tố bị can và tiến hành điều tra hoặc có thể vụ án đã được Viện kiểm sát có thẩm quyền tiến hành xem xét truy tố ra tòa án và cũng có thể vụ án đã được tòa án chuẩn bị đưa ra xét xử sơ thẩm hoặc xét xử phúc thẩm. Luật sư tham gia vào vụ án hình sự sẽ thực hiện các nhiệm vụ quyền hạn của người bào chữa để nghiên cứu hồ sơ và bào chữa cho người được bào chữa.

Thuê luật sư bảo vệ cho người bị hại trong vụ án hình sự: Trong vụ án hình sự liên quan đến thiệt hại luật sư sẽ tham gia bảo vệ quyền và lợi ích của người bị hại, tham gia và các giai đoạn tố tụng tại Cơ quan Điều tra, Công an, Viện Kiểm sát và Tòa án; sao chụp hồ sơ tài liệu, thu thập chứng cứ và đưa ra cũng như bảo vệ các yêu cầu về bồi thường thiệt hịa cho người bị hại. Trong quá trình tranh tụ tại Tòa án, Luật sư sẽ phát biểu quản điểm luận tội đối với các bị cáo đã gây ra cho bị hại; nếu vụ án cần phải kháng cáo luật sư sẽ giúp bị hại thực hiện việc kháng cáo bản án theo quy định.

Thuê luật sư bào chữa cho người chưa thành niên, người chưa thành niên khi phạm tội là người dưới 18 tuổi, theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự thì đây là những người đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (14 tuổi) nhưng chưa thành niên (dưới 18 tuổi) khi phạm tội thì bắt buộc phải có luật sư. Thông thường bố mẹ hoặc người đại diện hợp pháp hay người giám hộ sẽ thuê luật sư bào chữa. Trường hợp không thể có điều kiện thuê luật sư thì cơ quan tiến hành tố tụng sẽ yêu cầu Đoàn luật sư chỉ định luật sư bào chữa. Đây là quyền cơ bản của người dưới thành niên để có thể bào chữa cho hộ được tốt nhất.

Luật sư bào chữa để trả hồ sơ điều tra bổ sung là trường hợp luật sư tham gia bào chữa cho bị can, bị cáo trong vụ án hình sự và vào từng giai đoạn cụ thể có thể là giai đoạn truy tố tại Viện kiểm sát, Luật sư kiến nghị việc trả hồ sơ cho cơ quan Điều tra để tiến hành điều tra bổ sung hoặc sau khi Viện kiểm sát đã quyết định truy tố bằng Bản cáo trạng ra Tòa án có thẩm quyền thì Luật sư kiến nghị Thẩm phán thụ lý vụ án ra Quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung hoặc Tại phiên tòa luật sư bào chữa để Hội đồng xét xử trả hồ sơ điều tra bổ sung.

Giai đoạn mà luật sư có quyền tham gia theo quy định tại Bộ luật TTHS, Luật Luật sư và các văn bản pháp luật liên quan, cụ thể:

I. Giai đoạn tố tụng mà luật sư có thể tham gia

Theo quy định tại khoản 2 Điều 72 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 (BLTTHS) thì người bào chữa có thể là:

“a) Luật sư;

b) Người đại diện của người bị buộc tội;

c) Bào chữa viên nhân dân;

d) Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý.”

Bên cạnh đó, Điều 74 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định về thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng như sau:

“Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can.

Trường hợp bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ.

Trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.”

Căn cứ những quy định trên, luật sư có thể tham gia tố tụng để bào chữa cho em bạn khi em bạn hoặc gia đình bạn có giấy mời luật sư sau đó Luật sư sẽ tiến hành những thủ tục cần thiết để được cấp Giấy chứng nhận bào chữa theo quy định của BLTTHS và những văn bản có liên quan.

II. Quyền hạn của Luật sư (người bào chữa)

Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa được quy định cụ thể tại Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 như sau:

“1. Người bào chữa có quyền:

a) Gặp, hỏi người bị buộc tội;

b) Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can;

c) Có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này;

d) Được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này;

đ) Xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình, quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;

e) Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế;

g) Đề nghị tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này; đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

h) Thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

i) Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;

k) Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản;

l) Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa từ khi kết thúc điều tra;

m) Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa;

n) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

o) Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất theo quy định của Bộ luật này.

Bạn có thể tham khảo thêm nội dung tư vấn áp dụng văn bản pháp luật theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003:

I. Giai đoạn tố tụng mà luật sư có thể tham gia

Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) thì người bào chữa có thể là:

1.  Luật sư;

2.  Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;

3.  Bào chữa viên nhân dân.

Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 58 BLTTHS có quy định: Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can, Trong trường hợp bắt người theo quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.

Căn cứ những quy định trên, luật sư có thể tham gia tố tụng để bào chữa cho em bạn khi em bạn hoặc gia đình bạn có giấy mời luật sư sau đó Luật sư sẽ tiến hành những thủ tục cần thiết để được cấp Giấy chứng nhận bào chữa theo quy định của BLTTHS và những văn bản có liên quan.

II. Quyền hạn của Luật sư (người bào chữa)

Theo quy định tại khoản 2 Điều 58 BLTTHS thì Luật sư (người bào chữa) có quyền:

1.  Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;

2.  Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can;

3.  Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này;

4.  Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác;

5.  Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

6.  Gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam;

7.  Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật;

8.  Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà;

9.  Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

10. Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Thuê luật sư bào chữa hình sự ở Hà Nội

Gọi cho một luật sư chuyên hình sự tại Hà Nội : 1900. 599. 979

Bạn đã bị buộc tội về một tội ác mà bạn đã không phạm phải và tìm kiếm công lý nhanh chóng và không bị tổn thương trong khi duy trì danh dự và nhân phẩm của bạn? Hoặc, có lẽ bạn đã là nạn nhân của một tội ác và tìm kiếm sự trừng phạt hợp pháp đối với những người đã làm hại bạn hoặc gia đình bạn. Bạn thậm chí có thể tự mình phạm tội và mong muốn giải quyết tốt nhất có thể. Bất kể nguyên nhân hay động cơ, Văn phòng Luật sư Dragon sẽ tạo điều kiện cho công lý nhanh chóng và phù hợp cho các khách hàng tại Hà Nội và Hải Phòng của chúng tôi để họ nhận được phán quyết tốt nhất có thể.

Đó là, nếu bạn đã bị nhà nước buộc tội theo bộ luật hình sự, bắt buộc phải xuất hiện trước cơ quan quản lý hoặc muốn kháng cáo quyết định, Văn phòng Luật sư Dragon sẽ luôn cung cấp cho bạn sự hài lòng hoàn toàn. Hơn nữa, chúng tôi tính phí trên cơ sở lãi suất cố định để bạn nhận thức đầy đủ về các khoản chi tiêu trước khi chúng tôi thực hiện trường hợp của bạn. Bạn sẽ không bao giờ phải lo lắng về các cáo buộc ẩn hoặc những bất ngờ khó chịu khác trước và sau khi phán quyết được đưa ra.

Hơn nữa, Văn phòng Luật sư Dragon sẽ luôn bảo vệ bạn một cách trung thực và đạo đức. Chúng tôi sẽ sử dụng mọi phương tiện theo ý của chúng tôi để đảm bảo rằng công lý được đáp ứng và bạn sẽ nhận được phán quyết tốt nhất có thể, đưa ra bằng chứng. Văn phòng luật sư Dragon cũng sẽ tham khảo đầy đủ với bạn về các tùy chọn có sẵn và đề xuất lựa chọn tốt nhất cho nhu cầu duy nhất của bạn. Đó là, chúng tôi luôn đặt lợi ích tốt nhất của bạn lên hàng đầu và sẽ thực hiện các bước chủ động để vượt ra ngoài sự đại diện đơn thuần.

Ví dụ, các luật sư hình sự tại Hà Nội của chúng tôi được yêu cầu đăng ký vào các chương trình sáng kiến ​​giáo dục thường xuyên để họ cập nhật kiến thức hiểu biết hệ thống pháp lý – và tất cả các sắc thái của nó – một cách triệt để. Chúng tôi cũng đầu tư vào nghiên cứu và phát triển công nghệ để đảm bảo rằng kiến ​​thức về các đạo luật pháp lý của chúng tôi luôn cập nhật và chính xác.

Do đó, nếu bạn đã bị buộc tội hoặc là nạn nhân của tội phạm, bạn sẽ cần một luật sư pháp lý tốt nhất để đưa ra phán quyết mà bạn mong muốn. Các công tố viên và luật sư hình sự tận tâm, có kinh nghiệm và có trình độ học vấn cao của chúng tôi có một hồ sơ theo dõi thành công đã được chứng minh và có khả năng sẽ tạo điều kiện cho bản án mà bạn và gia đình bạn mong muốn. Hơn nữa, chúng tôi đã xử lý các vụ án hình sự từ rửa tiền đến giết người hàng loạt. Do đó, không có vụ án hình sự nào ở Hà Nội quá tầm thường hay khó khăn đối với các luật sư hình sự tại Văn phòng Luật sư Dragon.

Hãy cho chúng tôi về trường hợp hay vụ việc của bạn

Đại diện tư vấn trực tiếp của chúng tôi luôn sẵn sàng 24/7 để hỗ trợ bạn và có thể lên lịch tư vấn với chuyên gia luật của chúng tôi.

Thuê luật sư bào chữa cho người bị bắt

Thuê luật sư bào chữa cho người bị bắt là trường hợp người bị tình nghi hay còn gọi là nghi can có thể bị bắt quả tang hoặc bị tạm giữ song bắt hoặc bị mời về làm việc tại trụ sở cơ quan điều tra song bắt, trong tường hợp này người bị bắt có quyền thuê luật sư để bào chữa cho mình.

Người bị bắt tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt tạm giữa người bị bắt tạm giữ được nghe, nhận lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, quyết định phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp;

Người bị bắt tạm giữ trong trường hợp khẩn cấp có các quyền:

– Được biết lý do mình bị giữ;

– Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự;

– Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;

– Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

– Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tố tụng kiểm tra, đánh giá và các quyền khác

Người bị bắt tạm giữ có được quyền nhờ luật sư. Theo quy định thì người bị bắt tạm giữ có quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật sư bảo chữa cho mình. Nếu nhờ luật sư bào chữa họ có quyền yêu cầu cơ quan đang thụ lý vụ việc liên hệ luật sư để họ có thể nhờ luật sư bào chữa cho mình, ngoài ra họ cũng có các quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc giữ người, bắt người.

Người bị bắt theo quy định tại Điều 58 Bộ luật Tố tụng hình sự thì là bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc bắt theo quyết định truy nã. Khi bị bắt người bị bắt có các nghĩa vụ chấp hành lệnh bắt người và yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền bắt người theo quy định của pháp luật.

Người bị bắt khi bị bắt có quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật sư bào chữa và một số quyền cơ bản sau:

Được biết lý do mình bị giữ, bị bắt;
Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;
Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tố tụng kiểm tra, đánh giá;
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc giữ người, bắt người. Và một số quyền khác.
Khi bị tạm giữ có được thuê luật sư? Người bị tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ. Ngoài các quyền cơ bản được quy định tại Khoản 2 Điều 59 Bộ luật Tố tụng hình sự thì người bị tạm giữ có quyền tự bào chữa hoặc thuê luật sư bào chữa.

Thuê luật sư bào chữa tại Công ty luật Dragon. Vui lòng liên hệ: 1900.599.979

 

Khi chưa khởi tố mà nhận được giấy triệu tập của công an có nên thuê luật sư bào chữa

Tôi có giấy triệu tập của công an thành phố, liên quan đến tội trộm cắp xảy ra do bạn tôi làm đơn, mặc dù tôi khẳng định tôi không liên quan đến sự việc của bạn tôi mất trộm? mất bao nhiêu tiền? mất ở đâu ? như thế nào? bạn ấy làm đơn vu khống cho tôi.. Tôi bị công an gọi điện mời tôi, tôi vì không hiểu pháp luật nên đã ký hợp đồng thuê luật sư bào chữa bảo vệ cho tôi, đến lịch hẹn làm việc theo giấy triệu tập? Luật sư của tôi đi cùng tôi đến xuất trình tại công an điều tra như giấy giới thiệu, đơn mời luật sư bào chữa và thẻ luật sư, nhưng bên công an đã từ chối không cho luật sư bào chữa cho tôi tham gia với lý do, hiện nay chưa khởi tố vụ án, chưa khởi tố tôi, công an chỉ mời lên làm rõ sự việc, công an đề nghị tôi và luật sư bổ sung thêm hợp đồng dịch vụ pháp lý? Lúc đấy tôi thấy luật sư bảo tôi cứ làm việc với công an và luật sư bỏ ra về. Tôi rất hoang mang và đã bị sốc nên từ chối không làm việc với công an và xin hẹn buổi khác, tôi có nói với công an là phải có luật sư thì tôi mới làm việc sau đó tôi đi về. Luật sư của tôi không giải thích cho tôi biết lý do và ý kiến của cơ quan điều tra đúng hay sai? Nay tôi nhờ luật sư tư vấn ý kiến của công an như vậy có đúng không? luật sư bảo vệ cho tôi làm như vậy có đúng không? Tôi rất hoang mang khi tìm chọn một công ty luật có uy tín mà lại có một luật sư hành xử như vậy? Rất mong Công ty luật Dragon tư vấn gấp cho tôi.

Phúc đáp yêu cầu tư vấn pháp luật của anh/chị, đề nghị cho ý kiến về một số nội dung pháp lý liên quan đến việc: người bị kiến nghị khởi tố/bị tố giác có được mời Luật sư không, Luật sư Công ty luật Dragon có ý kiến như sau:

*) Đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác:

Theo như trình bày thì anh/chị đang bị tố giác về hành vi trộm cắp tài sản. Khoản 1 Điều 83 Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác là người được người bị tố giác nhờ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Luật sư là một trong những người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác (điểm a khoản 2 Điều 83 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015). Như vậy, anh/chị có quyền mời Luật sư để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình ngay từ khi bị tố giác (từ khi chưa có quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can).

Khoản 1 Điều 27 Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi bổ sung năm 2012) quy định: “Hoạt động tham gia tố tụng của luật sư phải tuân theo quy định của pháp luật về tố tụng và Luật này”.

Bộ Luật Tố tụng hình sự không quy định rõ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác phải xuất trình những giấy tờ gì khi làm việc với Cơ quan Cảnh sát điều tra. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm làm việc thực tế của Luật sư và quy định tại điểm a khoản 2 Điều 78 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì những giấy tờ Luật sư cần xuất trình khi làm việc với Cơ quan CSĐT là: Giấy giới thiệu của công ty luật cử luật sư đến cơ quan điều tra làm việc, Thẻ luật sư kèm theo bản sao có chứng thực và giấy yêu cầu đơn mời luật sư của người bị tố giác ( anh chị cũng như Luật sư không phải xuất trình Hợp đồng dịch vụ pháp lý).

Như vậy, việc công an từ chối không cho luật sư tham gia với lý do: hiện nay chưa khởi tố vụ án, chưa khởi tố bị can, công an chỉ mời lên làm rõ sự việc và đề nghị anh và luật sư bổ sung thêm hợp đồng dịch vụ pháp lý là vi phạm tố tụng.

*) Quyền của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác:

Khoản 3 Điều 83 Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 quy định: Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác có quyền:

  1. a) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
  2. b) Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
  3. c) Có mặt khi lấy lời khai người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố và nếu được Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên đồng ý thì được hỏi người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố. Sau mỗi lần lấy lời khai của người có thẩm quyền kết thúc thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có quyền hỏi người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố;
  4. d) Có mặt khi đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố;

đ) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Luật sư bào chữa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của anh/chị không đưa ra ý kiến nào và bỏ về khi bị công an từ chối là không thực hiện quyền của mình theo quy định trên. Không bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp tốt nhất cho khách hàng. Việc anh/chị từ chối không làm việc với công an, xin hẹn buổi khác và nói với công an là phải có luật sư bào chữa cho anh/chị thì anh/ chị mới làm việc với cơ quan điều tra là đúng với quy định của pháp luật.

Trên đây là quan điểm ý kiến của Thạc sĩ Luật sư Nguyễn Minh Long Giám đốc Công ty Luật Dragon – Đoàn Luật sư TP. Hà Nội về nội dung vụ viêcj trên.

Để biết thêm thông tin chi tiết bạn có thể liên hệ với Luật sư Hà Nội và Luật sư Hải Phòng theo địa chỉ dưới đây.

  1. Trụ sở chính Công ty Luật Dragon tại quận Cầu Giấy:  Phòng 6, Tầng 14, Tòa nhà VIMECO, Đường Phạm Hùng, Phường Trung Hòa, Quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội.
  2. VPĐD luật sư Công ty luật Dragon tại quận Long Biên: Số 24 Ngõ 29 Phố Trạm, phường Long Biên, quận Long Biên, Tp Hà Nội.
  3. Chi nhánh Công ty Luật Dragon tại Hải Phòng: Phòng 6 tầng 4 Tòa Nhà Khánh Hội, đường Lê Hồng Phong, quận Hồng Bàng, Tp Hải Phòng.

Công ty Luật Dragon cung cấp biểu phí và thù lao luật sư bào chữa tham khảo tại đây

Trân trọng!

CÔNG TY LUẬT DRAGON

Luật sư chuyên bào chữa vụ án hình sự

ĐIỀU LUẬT

ÁN LỆ