CHÁNH ÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Căn cứ Điều 273 và Điều 275 Bộ luật tố tụng hình sự;
Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự đối với các bị cáo:
1. Lò Văn Chángsinh năm 1959; trú tại: bản Lướt, xã Ngọc Chiến, huyện Mường La, tỉnh S; khi phạm tội là kế toán xã Ngọc Chiến, huyện Mường La, tỉnh S; con ông Lò Văn Dương và bà Lò Thị Tem; có vợ và 02 con; tiền án, tiền sự: không; tại ngoại.
2. Lường Văn Hảisinh năm 1957; trú tại: bản Đông Xuông, xã Ngọc Chiến, huyện Mường La, tỉnh S; khi phạm tội là chủ tịch UBND xã Ngọc Chiến, huyện Mường La, tỉnh S; con ông Lường Văn San và bà Lò Thị In; có vợ và 04 con; tiền án, tiền sự: không; tại ngoại.
NHẬN THẤY:
Ngày 30-12-2004, UBND huyện Mường La đền bù giải phóng mặt bằng vùng lòng hồ thủy điện Nậm Chiến cho UBND xã Ngọc Chiến và một số hộ trong xã với tổng số tiền là 2.729.704.000 đồng. Quá trình thực hiện dự án, công ty thủy điện Nậm Chiến đã trả tiền cho UNBD xã Ngọc Chiến thành nhiều đợt. Ngày 31-12-2004, Lường Văn Hải là chủ tịch UBND xã Ngọc Chiến đã giả mạo chữ ký của Tòng Văn Păn (là phó chủ tịch xã Ngọc Chiến) nhận 162.992.000 đồng của Công ty thủy điện Nậm Chiến, nhưng Hải chỉ nhập quỹ của UBND xã Ngọc Chiến số tiền là 120.342.000 đồng, còn lại 42.650.000 đồng, Hải giữ lại chi tiêu cá nhân.
Năm 2009, xã Ngọc Chiến, huyện Mường La, tỉnh S nhận được chương trình hỗ trợ sản xuất mua dê giống cho 120 hộ dân với tổng số tiền là 69.600.000 đồng. Lò Văn Cháng (là kế toán xã Ngọc Chiến) đã không nhập quỹ số tiền trên mà tự cầm tiền đi mua tủ sắt cho các bản đạt bốn không về ma túy với tổng số tiền là 39.700.000 đồng. Số tiền còn lại là 29.900.000 đồng, Cháng sử dụng để chi tiêu cá nhân. Ngoài ra, cũng trong năm 2009, xã Ngọc Chiến được cấp nguồn vốn dự án hỗ trợ các hộ nghèo làm nhà ở với tổng số tiền là 3.331.000.000 đồng, Cháng đã đến kho bạc huyện Mường La rút số tiền 1.811.000.000 đồng, sau đó tiếp tục tạm ứng thêm từ ngân sách xã 575.659.000 đồng, tổng cộng là 2.386.659.000 đồng để mua tấm lợp và cấp phát tiền mặt cho các hộ dân được hưởng. Cháng hợp đồng mua của anh Lò Văn Tâm tổng số 23.020 tấm lợp với giá 38.000 đồng/tấm và 3.620 tấm úp nóc với giá 17.000 đồng/tấm nhưng Cháng đã thỏa thuận với bên bán để nâng giá tấm lợp lên thành 40.000 đồng/tấm. Cháng đã nhận của anh Tâm số tiền chênh lệch giá tấm lợp là 20.000.000 đồng. Số tiền còn lại của dự án, Cháng tiếp tục chi trả cho các hộ dân được hưởng chính sách, số tiền còn lại là 38.115.000 đồng, Cháng sử dụng cá nhân. Tổng số tiền mà Cháng chiếm đoạt là 88.115.000 đồng.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 73/2012/HS-ST ngày 21/8/2012, Tòa án nhân dân huyện Mường La áp dụng điểm d khoản 2 Điều 278, các điểm b, p khoản 1, Điều 46 Bộ luật hình sự xử phạt Lò Văn Cháng 07 năm tù; áp dụng khoản 1 Điều 278, các điểm b, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự xử phạt Lường Văn Hải 02 năm tù, đều về tội “Tham ô tài sản”.
Sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo có đơn kháng cáo xin giảm hình phạt và xin hưởng án treo.
Tại bản án hình sự phúc thẩm số 06/2012/HSPT ngày 05/11/2012, Tòa án nhân dân tỉnh S sửa bản án sơ thẩm áp dụng điểm d khoản 2 Điều 278, các điểm b, p, s khoản 1, khoản 2 Điều 46, điều 47, điều 60 Bộ luật hình sự xử phạt Lò Văn Cháng 03 năm tù; áp dụng khoản 1 Điều 278, các điểm b, p, s khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 60 Bộ luật hình sự xử phạt Lường Văn Hải 02 năm tù, đều về tội “Tham ô tài sản” và đều cho hưởng án treo.
XÉT THẤY:
Các bị cáo Lường Văn Hải và Lò Văn Cháng đã có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản của Nhà nước mà các bị cáo có trách nhiệm quản lý (bị cáo Hải chiếm đoạt 42.650.000 đồng, bị cáo Cháng 02 lần chiếm đoạt với tổng giá trị là 88.115.000 đồng). Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng khoản 1 Điều 278 Bộ luật hình sự xử phạt Lường Văn Hải 02 năm tù; áp dụng điểm d khoản 2 Điều 278 Bộ luật hình sự xử phạt Lò Văn Cháng 07 năm tù, đều về tội “Tham ô tài sản” là có căn cứ. Tuy nhiên, bị cáo Lò Văn Cháng thực hiện hành vi phạm tội nhiều lần (02 lần) nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không áp dụng thêm điểm c khoản 2 Điều 278 Bộ luật hình sự đối với bị cáo là thiếu sót.
Khi xét xử phúc thẩm, bị cáo Lò Văn Cháng khai được tặng huân chương, huy chương kháng chiến, được UBND xã tặng bằng khen, giấy khen do có thành tích xuất sắc trong công tác, nhưng do thiên tai hỏa hoạn nên không xuất trình được các tài liệu nêu trên. Ngoài ra, bố đẻ bị cáo Lò Văn Cháng còn tham gia kháng chiến chống Mỹ được tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng nhất nhưng bị cáo chưa nộp cho Cơ quan điều tra và Tòa án. Tòa án cấp phúc thẩm không xác minh tính xác thực về lời khai của bị cáo Cháng mà vẫn áp dụng thêm điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự là không có cơ sở vững chắc. Mặt khác, ngay cả khi bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nêu trên thì việc Tòa án cấp phúc thẩm giảm hình phạt cho bị cáo xuống còn 03 năm tù là quá nhẹ, không phù hợp với tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo, hơn nữa lại cho bị cáo được hưởng án treo là áp dụng không đúng quy định của pháp luật.
Đối với bị cáo Lường Văn Hải, tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo xuất trình thêm tài liệu chứng minh bị cáo có thành tích trong công tác (Giấy khen của ủy ban nhân dân huyện Mường La, giấy khen của Công an tỉnh S, Giấy khen của Ban chấp hành Đảng bộ xã Ngọc Chiến), hoàn cảnh gia đình khó khăn…. Tuy nhiên, bị cáo phạm tội thuộc nhóm tội tham nhũng, gây hậu quả nghiêm trọng, xâm phạm đến chính sách quản lý kinh tế của Nhà nước, ảnh hưởng đến quyền lợi của nhân dân. Tòa án cấp phúc thẩm đã quá nhấn mạnh về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, áp dụng thêm Điều 60 Bộ luật hình sự để cho bị cáo được hưởng án treo là áp dụng không đúng quy định của Bộ luật hình sự và Hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tại Nghị quyết 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007; không đảm bảo được tính nghiêm minh của pháp luật, không đáp ứng yêu cầu răn đe, gây ảnh hưởng xấu trong cuộc đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Kháng nghị bản án hình sự phúc thẩm số 06/2012/HSPT ngày 05/11/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh S và đề nghị Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy bản án hình sự phúc thẩm nêu trên về phần trách nhiệm hình sự đối với Lò Văn Cháng và Lường Văn Hải; chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh S để xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy địnhcủa pháp luật.
KẾT QUẢ XÉT XỬ GIÁM ĐỐC THẨM CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Tại bản án số 34/2013/HS-GĐT ngày 18/12/2013, Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao quyết định:
Hủy bản án hình sự phúc thẩm số 06/2012/HSPT ngày 05/11/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh S về phần trách nhiệm hình sự đối với Lò Văn Cháng và Lường Văn Hải; chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh S để xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.