1900599979

THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH TỘI PHẠM LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN CÓ SỬ DỤNG CÔNG NGHỆ CAO VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG TỘI PHẠM NÀY Ở VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP WTO

            Trên thế giới, khái niệm tội phạm công nghệ cao ( CNC) xuất hiện vào cuối thế kỉ XX cùng với sự phát triển của các ngành khoa học, công nghệ như công nghệ hóa học, công nghệ vật lí hạt nhân, công nghệ sinh học..vv… Đặc biệt là công nghệ thông tin và sự ra đời của máy vi tính cùng với hệ thống mạng Internet kết nối toàn cầu. Theo đó đã xuất hiện những khái niệm về loại tội phạm mới như tội phạm máy tính, tội phạm đột nhập (hacker),tội phạm tin học..vv..

            Hiện nay, các nhà tội phạm học trên thế giới đã đưa ra nhiều khái niệm về tội phạm CNC như tội tạo ra và lan truyền virut máy tính, tội phạm lợi dụng internet, tội phạm không gian điều khiển học, tội phạm lừa đảo chiếm đoạt bất hợp pháp các cuộc gọi trên hệ thống điện thoại, lừa đảo tín dụng..vv..

            Trong điều kiện hội nhập WTO, Việt Nam đứng trước nhiều thời cơ nhưng cũng nhiều thách thức, và một trong những mặt trái của hậu WTO là có nhiều khả năng “nhập khẩu” cả những loại tội phạm mới từ nước ngoài, trong đó có các tội phạm công nghệ cao.

            Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ nghiên cứu hành vi phạm tội qua việc sử dụng CNC để Lừa đảo chiếm đoạt tài sản (CĐTS)  của người khác. Những trường hợp này người phạm tội sử dụng các thành tựu khoa học tiên tiến của công nghệ thông tin và mạng internet hoặc các công nghệ hiện đại khác…để thực hiện hành vi gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản.

            Theo thống kê của chúng tôi, ở Việt Nam hiện nay đã xuất hiện một số thủ đoạn gian dối nhằm CĐTS qua việc sử dụng khoa học công nghệ hiện đại như sau:

–         Làm, sử dụng thẻ tín dụng giả để mua hàng hóa, rút tiền ở các máy trả tiền tự động của các ngân hàng.

–         Tìm kiếm mật mã số tìa khoản của các cá nhân, tổ chức và sử dụng để mua hàng hóa qua mạng Internet.

–         Sử dụng mật mã tài khoản do thu nhập bất hợp pháp mà có, giả danh chủ tài khoản ra lệnh chuyển tiền từ ngân hàng nước ngoài về Việt Nam hoặc ngược lại.

–         Sử dụng CNC để tẩy xóa, sửa chữa mệnh giá của séc, của ngân phiếu…

–         Sử dụng phương pháp hóa học để lừa dối chủ tài khoản bằng hình thức dùng đôla đen hoặc biến giấy trắng thành đôla …vv

Với những thủ đoạn như trên cho thấy hành vi lừa đảo CĐTS có sử dụng nhiều ngành khoa học công nghệ để thực hiện hành vi lừa dối chủ tài sản nhưng chủ yếu hiện nay thường gặp là công nghệ thông tin học. Cho nên, Tội lừa đảo CĐTS có sử dụng công nghệ cao có thể  được hiểu là trường hợp người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối qua việc sử dụng các phương tiện kỹ thuật công nghệ tiên tiến trong lĩnh vực tin học và mạng Internet hay các lĩnh vực tin học và mạng Internet hay các lĩnh vực khoa học công nghệ khác để lừa dối nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác.

            Qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy Tội lừa đảo CĐTS có sử udngj CNC với một số đặc điểm chủ yếu sau đây:

–         Thủ đoạn gian dối được thực hiện thông qua việc sử dụng phương tiện khoa học công nghệ tin học và mạng Internet.

–         Người phạm tội có thể ở bấy kỳ  nơi nào, bất kỳ thời điểm nào cũng thực hiện được hành vi phạm tội nên rất khó xác định địa điểm phạm tội.

–         Tội phạm có nhiều khả năng mang tính xuyên quốc gia.

–         Dấu vết của tội phạm có thể xóa bỏ một cách nhanh chóng, dễ dàng nên khó khăn cho công tác điều tra, phát hiện.

–         Chủ thể thực hiện tôi phạm phần lớn là những người có trình độ tin học nhất định.

–         Việc làm mất quyền sở hữu về tài sản của chủ tài sản và tạo quyền đó cho người phạm tội hoặc cho người khác mà người phạm tội quan tâm chỉ thông qua các “lệnh” của máy tính và việc chiếm đoạt chỉ diễn ra trong thời gian được tính bằng giây mà không phải là sự chuyển dịch tài sản như các trường hợp Lừa đảo CĐTS theo quan niệm truyền thống về hành vi “chiếm đoạt”.

Với một số đặc điểm cơ bản nêu trên, đặt ra cho các cơ quan Tư pháp những yêu cầu về biện pháp đấu tranh phòng chống tội Lừa đảo CĐTS có sử dụng CNC cũng có những tính chất đặc biệt.

Trong thời gian qua, tình hình tội lừa đảo CĐTS nói chung và tội Lừa đảo CĐTS có sử dụng CNC nói riêng đang có chiều hướng diễn biến phức tạp. Nhất là trong điều kiện bùng nổ của công nghê thông tin và sự hội nhập ngày càng sâu rộng của nền kinh tế nước ta với các nước trên thế giới trong WTO. Vì vậy, việc đấu tranh phòng ngừa các loại tội phạm sử dụng CNC nói chung cũng như tội Lừa đảo CĐTS có sử dụng CNC nói riêng ở nước ta là rất cần thiết.

  1. 1.      Thực trạng của tình hình tội phạm của tội Lừa đảo CĐTS có sử dụng CNC giai đoạn 2001-2005

Giai đoạn trước năm 1985 nền kinh tế Việt Nam còn mang nặng tính tập trung, quan liêu, bao cấp. Sự hội nhập của nền kinh tế Việt Nam với các nước trong khu vực và thế giới còn ở mức độ hạn chế, nhất là đang trong thời kì bao vây cấm vận về kinh tế. Thời gian này công nghệ thông tin ở nước ta nói chung chưa phát triển. Vì vậy, các tội phạm về tin học, về mạng Internet chưa xảy ra trên thực tế và chưa có khái niệm trong luật hình sự ở Việt Nam.

Giai đoạn 1986-2000, Việt Nam sau 15 năm đổi mới, nền kinh tế đạt nhiều thành tựu quan trọng. Trong đó công nghệ thông tin bước đầu được áp dụng trong các lĩnh vwucj quản lí kinh tế. Song thời kì này, máy vi tính mwois chỉ có ở một số thành phố lớn và hệ thống thanh toán qua việc kết nối mạng internet trong lĩnh vực tài chính kinh tế chưa nhiều. Hơn nữa trình độ tin học, khả năng khai thác mạng internet cũng như các dịch vụ thẻ tín dụng chưa mang tính phổ biến. Vì vậy, điều kiện để tội Lừa đảo CĐTS có sử dụng CNC xảy ra là rất ít và có thể nói là không có. Theo số liệu  thống kê trong những năm 1986-2000 của TAND TP Cần Thơ, Hải Phòng, Đà Nẵng, Hà Nội và TP Hồ Chí Minh mà chúng tôi có điều kiện nghiên cứu thì không có trường hợp nào bị xét xử về tội lừa đảo CĐTS có sử dụng CNC.

Giai đoạn 2001-2005 tội lừa đảo CĐTS có sử dụng CNC đã được xét xử ở Tòa án Việt Nam nhưng việc thống kê trong riêng biệt hàng năm và tiêu chí thống kê riêng biệt hàng năm và tiêu chí thống kê cũng chỉ nêu tội danh là lừa đảo CĐTS mà không đề cập đến thủ đoạn thực hiện tội phạm. Do vậy, nghiên cứu tình hình tội lừa đảo CĐTS mà không đề cập đến thủ đoạn thực hiện tội phạm. Do vậy, nghiên cứu tình hình tội Lừa đảo CĐTS  có sử dụng CNC từ năm 2001 đến 2005 trong phạm vi cả nước chúng tôi thực hiện việc nghiên cứu qua sổ lưu thống kê các bản án đã xét xử tại TAND ở các thành phố Cần Thơ, Hải Phòng, Đà Nẵng, Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Kết quả cho thấy trong giai đoạn 2001-2005 ở các thành phố Hải Phòng, Cần Thơ, Đà Nẵng không có vụ án nào với tội danh Lừa đảo CĐTS mà thủ đoạn gian dối qua sử dụng thẻ tín dụng giả, hay sửa chữa séc hoặc ngân phiếu bằng công nghệ cao.

Tại TAND TP Hà Nội và TP Hồ Chí Minh qua các bản án xét xử sơ thẩm, Chúng tôi thu được kết quả như sau:

Bảng 1: Số lượng vụ và người phạm tội lừa đảo CĐTS có sử dụng CNC ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2001-2005

 

Năm Số vụ phạm tội Lừa đảo CĐTS có sử dụng CNC được xét xử sơ thẩm tại TAND Thành Phố Số người phạm tội Lừa đảo CĐTS có sử dụng CNC được xét xử sơ thẩm tại TAND Thành Phố  
TP Hà Nội TPHCM Cộng TP Hà Nội TPHCM Cộng
2001 01 00 01 03 0 03
2002 0 01 01 0 02 02
2003 0 0 0 0 0 0
2004 0 03 03 0 06 06
2005 01 01 02 02 04 06
Tổng 02 05 07 05 12 17

 

( Nguồn theo sổ lưu thống kê của TAND TP Hà Nội và TP Hồ Chí Minh)

Qua số lượng vụ phạm tội Lừa đảo CĐTS có sử dụng CNC được thống kê tại TAND TP Hà Nội và TAND TP Hồ Chí Minh cho thấy, các vụ án này xảy ra ở giai đoạn hiện nay chưa nhiều, thậm chí năm 2003 ở TP Hà Nội và TP Hồ Chí Minh không có trường hợp nào bị xét xử về tội Lừa đảo CĐTS có sử dụng CNC. Trong giai đoạn từ 2001 đến 2003 ở thành phố Hà Nội và TP Hồ Chí Minh chỉ có 2 vụ lừa đảo CĐTS có sử dụng CNC. Vụ thứ nhất do Trương Đức Lượng cầm đầu thực hiện hành vi lừa đảo với thủ đoạn mua bán hàng hóa qua mạng internet và vụ thứ hai do Nguyễn Anh Tuấn- Chủ tịch hội đồng qunar trị Công ty cổ phần giải trí RC làm giả thẻ tín dụng của các ngân hàng ở Mỹ qua máy trả tiền tự động. Như vậy trên thực tế Hà Nội năm 2005 đã có 3 vụ lừa đảo CĐTS có sử dụng công nghệ cao.

Về số lượng người phạm tội lừa đảo CĐTS có sử dụng CNC được xét xử sơ thẩm tại TAND TP Hà Nội và TPHCM trong giai đoạn 2001-2005 nếu tính trung bình mỗi năm ở cả hai thành phố có khoảng 3 đến 4 người. Trong giai đoạn 2001-2003 chỉ có 5 người phạm tội thì đến năm 2004 đã có 12 người phạm tội Lừa đảo CĐTS có sử dụng CNC.

Có thể nói rằng, số vụ phạm tội và số người phạm tội Lừa đảo CĐTS có sử dụng CNC được TAND TPHN và TPHCM xét xử theo số liệu thống kê nêu trên chỉ là tương đối. Tuy chưa phải là những con số chính xác tuyệt đối nhưng thông số này đã phản ánh cơ bản thực trạng của tình hình tội phạm của tội Lừa đảo CĐTS có sử dụng CNC ở TP HN và TPHCM.

Tuy số lượng vụ phạm tội Lừa đảo CĐTS  có sử dụng CNC không lớn nhưng điều đáng lo là thủ đoạn thực hiện tội phạm và mức độ gây thiệt hại về tài sản là rất nghiêm trọng. Vừa qua (10/2006) Công an Hải Phòng phối hợp cùng cục Cảnh sát điều tra tội phạm về quản lý kinh tế và chức vụ đã bắt Vũ Ngọc Hà có hành vi dùng mật mã, thông tin về tài khoản thẻ tín dụng tìm kiếm được qua trang web đen và ra lệnh chuyển tiền từ ngân hàng Autralia về tài khoản của Hà mở tại Việt Nam. Số tiền Hà chiếm đoạt trên 500 triệu đồng.

Qua số liệu thống kê nêu trên cho thấy mức độ gây thiệt hại về mặt vật chất là khá lớn. Số thiệt hại năm sau cao hơn năm trước và có xu thế gia tăng. Tính trung bình một vụ Lừa đảo CĐTS có sử dụng CNC chiếm đoạt khoảng 490 triệu đồng một vụ.

Trong tổng số 7 vụ án đã xét xử, có 4 vụ người phạm tội sử dụng thẻ tín dụng giả chiếm 57%, 1 vụ sử dụng lệnh chuyển tiền giả qua ngân hàng, chiếm 14% và 2 vụ sử dụng các thủ đoạn khác chiếm 29%

Do đặc điểm của tội lừa đảo CĐTS có sử dụng CNC chủ yếu thông qua hệ thống mạng Internet và các công nghệ thông tin được ứng dụng trong các lĩnh vực quản lí tài sản, cho nên ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh trong tổng số 7 vụ án được thống kê, có 5 vụ xảy ra liên quan đến ngân hàng, công tác bảo vệ cần chú trọng đúng mức.

Như vậy, qua nghiên cứu tình hình tội phạm của tội lừa đảo CĐTS có sử dụng CNC trong một số thành phố điển hình trong cả nước và ở TP Hà Nội cũng như TP HCM giai đoạn 2001-2005 chúng tôi rút ta một số nhận xét sau đây:

+ Thủ đoạn sủ dụng thẻ tín dụng giả, sủ dụng lệnh chuyển tiền giả qua hệ thống ngân hàng để CĐTS ở thời điểm 2001-2005 là thủ đoạn thực tế chiếm tỉ lệ chủ yếu trong cơ cấu các vụ phạm tội.

            + Đối tượng phạm tội là người nước ngoài chiếm tỷ lệ rất cao

            + Là hình thức tội phạm mới nên việc đấu tranh phòng chống gặp rất nhiều khó khăn.

  1. 2.      Một số giải pháp đấu tranh phòng chống tội phạm Lừa đảo CĐTS có sử dụng CNC

Thứ nhất: Cần có giải pháp về mặt kỹ thuật để phòng ngừa và ngăn chặn các hành vi phạm tội

            Đây là giải pháp đặc thù về mặt kỹ thuật nhằm nhận diện các cách thức thực hiện tội phạm, đồng thời ngăn chặn việc xâm nhập tìm kiếm, đánh cắp mã tài khoản bí mật, các mã số của thẻ tín dụng. Ngoài ra cần có công nghệ kiểm soát hoạt động của các tài khoản mà người nước ngoài mở tạm thời ở Việt Nam…vv.. Biện pháp này chủ yếu của các nhà chuyen môn kỹ thuật chuyên sâu. Theo chúng tôi, trước hết những cơ quan có nguy cơ cao bọ bọn tội phạm gây thiệt hại cần có sự giúp đỡ của các cơ quan kỹ thuật mạng để có các giải pháp bảo vệ, phòng ngừa.

            + Các cơ quan ngân hàng…xây dựng các trang web của mình phải kết hợp với cơ quan an ninh mạng để đưa ra những mật mã hoặc những công nghệ đặc biệt cho phép khách hàng nhận biết rằng họ đang vào trang web thật của ngân hàng cần giao dịch.

            + Ở Việt Nam hiện nay, việc phát hành thẻ tín dụng thường riêng lẻ của từng ngân hàng rất khó cho việc quản lý vào bảo mật.

            Thứ hai: cần có sự hợp tác quốc tế, nâng cao năng lực chuyên sâu của lực lượng trực tiếp thực hiện công tác phòng ngừa và đấu tranh chống hành vi phạm tội lừa đảo CĐTS có sử dụng công nghệ cao cả về trình độ nghiệp vụ và cơ sở vật chất

–         Cơ quan Công an mà trực tiếp là Văn phòng Interpol Việt Nam cần có sự hợp tác quốc tế một cách chặt chẽ nhằm theo dõi và ngăn ngừa những tên tội phạm là người nước ngoài đã có tiền án, nhất là những tên có tiền án tiền sự về tội lừa đảo về việc sử dụng thẻ tín dụng giả…

–         Tuy hiện nay cơ quan Công an đã có cơ quan chuyên phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm công nghệ cao nhưng cần phải có lĩnh vực khác nhau nhằm phòng ngừa và đấu tranh với từng loại tội phạm nhất định để đạt hiệu quả  cao hơn.

–         Đối với công tác cán bộ trong các cơ quan Tư pháp như cán bộ tòa án, viện kiểm sát, cán bộ cơ quan điều tra phải được đào tạo nâng cao trình độ tin học.

Thứ ba: Cần phát huy vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong việc tuyên truyền cảnh báo các thủ đoạn mà bọn tội phạm thường thực hiện để mọi người dân nâng cao cảnh giác tránh bị mắc sai lừa. Đồng thời phát hiện, thông báo cho cơ quan có trách nhiệm kịp thời ngăn chặn.

Thứ tư: Đối với người sử dụng thẻ tín dụng …trong giao dịch cũng cần nâng cao ý thức cảnh giác như khi sử dụng thẻ tín dụng cần giữ bí mật số thẻ, mã số pin và nếu có nghi ngờ bị lộ phải báo ngay cho ngân hàng, nơi quản lí thẻ biết hoặc phỉa thay đổi mã số của thẻ.

Thứ năm: Về phương tiện pháp luật Hình sự và thực tiễn áp dụng

Việt Nam đã là thành viên WTO cho nên trong thời gian tới việc sử dụng thương mại điện tử sẽ trở thành phổ biến, các giao dịch thanh toán qua mạng Internet và các giao dịch tài chính khác cũng ngày càng đa dạng… Do đó có nhiều khả năng hành vi Lừa đảo CĐTS có sử dụng công nghệ cao cũng gia tăng. Vì vậy BLDS cũng phải thay đổi , bổ sung tội danh mới và mô tả cụ thể hành vi phạm tội phù hợp tính chất công nghệ cao và cách thwucs tiến hành.

Trên thế giới , một số BLHS của các nước đã quy định tội lừa đảo thông qua mạng máy tính. Ví dụ như BLHS của Nhật bản : “ người nào đưa thông tin gian dối hay chỉ thị sai lầm vào máy tính dùng đẻ xử lý công việc của người khác, tạo ra dữ liệu điện tử có nội dung sai lầm về sự mất còn hay thay đổi quyền về tài sản cho người ấy sử dụng, nhờ đó thủ đắc lợi ích bất chính ấy thì bị phạt từ khổ sai đến 10 năm.”

Hy vọng rằng những giải pháp bước đầu nêu trong bài viết này sẽ góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội lừa đảo CĐTS có sử dụng CNC ở TP HN và TP HCM nói riêng cũng như trong phạm vi cả nước trong thời kì hậu WTO

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TỘI PHẠM SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 

                                                NGUYỄN XUÂN HÀ

                                    TAND thị xã Nghĩa Lộ- Yên Bái

                        —————————————————–

            Tội phạm sử dụng trái phép chất ma túy lần đầu tiên được quy định trong Bộ luật Hình sự ( điều 1851) khi Quốc hội khóa IX kỳ họp thứ 11 thông qua Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự 1985. Đến Bộ luật Hình sự năm 1999 tội sử dụng trái phép chất ma túy được quy định tại điều 199 như sau:

  1. Người nào sử dụng trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nòa, đã được giáo dục nhiều lần, đã bị xử lý hành chính bằng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc mà còn tiếp tục sử dụng trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
  2. Tái phạm về tội này thì bị phạt tù từ hai năm đến năm năm. Như vậy, ở cấu thành cơ bản, về mặt khách quan, người sử dụng trái phép chất ma túy sẽ bị tuy cứu trách nhiệm hình sự khi có đủ ba dâu hiệu:

a)     Đã được giáo dục nhiều lần về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy

b)     Đã bị xử lý hành chính bằng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc

c)     Vẫn còn tiếp tục sử dụng trái phép chất ma túy.

Trong thực tiễn, khi áp dụng điều luật này đã bộc lộ một số vấn đề còn vướng mắc như sau:

  1. Theo thứ tự thiết kế của điều luật thì hình thức giáo dục đặt trước hình thức xử lý vi phạm hành chính. Suy ra về mặt thời gian thì giáo dục phải diễn ra trước, nếu tiếp tục sử dụng trái phép chất ma túy thì xử lý hành chính và như vậy thì rõ ràng xử lý hành chính phải diễn ra trước, nếu tiếp tục sử dụng  trái phép chất ma túy thì xử lý hành chính và như vậy rõ ràng xử lý hành chính phải diễn ra sau, nếu sau khi bị xử lý hành chính người đó còn tiếp tục sử dụng trái phép chất ma túy thì xử lý hình sự. Nhưng tại khoản b mục 1 hướng dẫn số 03/VKS ngày 03/01/2000 của Viện Kiểm Sát nhân dân tối cao lại hướng dẫn ngược lại :” Điều kiện giáo dục nhiều lần phải được thẻ hiện trong hồ sơ vụ án và được tính kể từ khi thi hành xong quyết định xử lý vi phạm hành chính” nếu còn tiếp tục sử dụng trái phép chất ma túy thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự, để ngắn gọn vè dễ so sánh xin mô tả bằng sơ đồ như sau:
Theo thứ tự quy định tại điều 199 BLHS Sử dụng trái phép ma túy Giáo dục nhiều lần

Xử lý hành chínhXử lý hình sựTheo hướng dẫn sô 03/VKS ngày 03/01/2000Sử dụng trái phép ma túy Xử lý hành chínhGiáo dục nhiều lầnXử lý hình sự

Từ những cách hiểu khác nhau như trên, dẫn đến có quan điểm chỉ coi là có dấu hiệu thỏa mãn đúng thứ tự hướng dẫn của Viện Kiểm Sát  nhân dân tối cao. Có quan điểm chỉ coi là có tội khi các dấu hiệu thỏa mãn theo đúng thứ tự thiết kế của điều luật, chúng tôi thống nhất với quan điểm này bởi vì thứ tự thiết kế của điều luật đã phản ánh rõ đường lối xử lý đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Mặt khác theo luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì trong số các văn bẳn do Viện Kiểm Sát nhân dan tối cao ban hành không có hình thức văn bản là hướng dẫn. Do vậy, hướng dãn số 03 nêu trên về mặt hình thức không phải là văn bản quy phạm pháp luật nên về hiệu lực không giống như Thông tư Liên tịch hay nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, nên không có hiệu luwch áp dụng chung cho tất cả các cơ quan tiến hành tố tụng nhất là cơ quan điều tra và xét xử.

  1. Về điều kiện đã được giáo dục nhiều lần: trước hết là về nhiều lần thì trong khoa học pháp lý hiện nay được hiểu là từ hai lần trở lên. Cồn về giáo dục thì đây là một khái niệm rộng, là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau. Song ở đây với ý nghĩa là một dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội sử dụng trái phép chất ma túy thì câu hỏi được đặt ra là : giáo dục ở mức độ nào mới được coi là thỏa mãn yêu cầu của điều luật? hay nói cách khác, chủ thể, hình thức, nội dung giáo dục phải như thế nào mới được coi là đã được giáo dục theo quy định của điều 199 Bộ luật Hình sự.

Tại mục 3 Thông tư số 02/1998/TTLT?TANDTC-VKSNDTC- BCA ngày 05/8/1998 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm Sát nhân dân tối cao, Bộ Công An hướng dẫn như sau: Đã được giáo dục nhiều lần được hiểu là đã được cơ quan nhà nước, tổ chức cũng như người có trách nhiệm ở địa phương từ hai lần trở lên vận động, thuyết phục, nhắc nhở hoặc xử phạt vi phạm hành chính, nhưng vẫn tiếp tục sử dụng trái phép chất ma túy”.

            Như vậy theo hướng dẫn của Thông tư liên tịch trên thì: Có ba loại chủ thể tham gia giáo dục gồm: Cơ quan Nhà nước, tổ chức, người có trách nhiệm ở đại phương.

            Có ba loại chủ thể tham gia giáo dục gồm: Cơ quan Nhà Nước, tổ chức, nhắc nhở, người có trách nhiệm ở địa phương.

            Có bốn loại hình thức giáo dục được thể hiện là : vận động, thuyết phục, nhắc nhở hoặc xử phạt vi phạm hành chính.

            Có dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm phải được các nhà làm luật và hướng dẫn thi hành làm rõ, điều đó đảm bảo cho người, cơ quan tiến hành tố tụng và cả người dân hiểu và áp dụng đúng pháp luật. Trên cwo sở của yêu cầu này thì còn phải làm rõ những người có trách nhiệm ở địa phương là gồm những người nào, ngoài các hình thức giáo dục đã được hướng dẫn như vận động, thuyết phục, nhắc nhở hoặc xử phạt vi phạm hành chính thì các hình thức giáo dục khác như kiểm điểm, xử lý kỷ luật trong các cơ quan nhà nước, tổ chức đảng, đoàn thể, tổ chức xã hội…có được coi là giáo dục hay không? Theo chúng tôi thì các hình thức giáo dục này cũng chấp nhận được bời vì xét tính chất mức độ thấy cũng tương đương với bốn hình thức giáo dục theo Thông tư 02 quy định. Nhưng cũng có quan điểm khác cho rằng theo nguyên tắc có lợi  cho bị can, bị cáo và không làm xấu đi tình trạng của bị can, bị cáo thì cơ quan tiến hành tố tụng chỉ được phép áp dụng và tuân theo hướng dẫn tại thông tư 02, tức là chỉ coi là đã được giáo dục khi việc giáo dục được tiến hành bởi các chủ thể và với các hình thức khác thì không được coi là đã được giáo dục và người sủ dụng trái phép chất ma túy không phạm tội.

  1. Câu hỏi đặt ra: Như thế nào thì coi là đã bị xử lý vi phạm hành chính bằng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. Quan điểm thứ nhất cho rằng đã bị xử lý vi phạm hành chính bằng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc là đã có quyết định xử lý vi phạm hành chính vì theo quy định tại điều 95 khoản 2 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính thì quyết định xử lý có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký. Quan điểm thứ hai cho rằng: Người nghiện ma túyphải chấp hành xong quyết định xử lý vi phạm hành chính, chúng tôi nhất trí với quan điểm này vì xuất phát từ chính sách nhân đạo của pháp luật nước ta. Từ trước tới nay, chúng ta vẫn coi hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là một trong những tệ nạn

Công ty luật tại tp hcm, văn phòng luật sư tp hcm, dịch vụ tư vấn luật, luật sư tp hcm, luật sư giỏi tại tp hcm

Xếp hạng
5/5

Chia sẻ

Share on facebook
Share on twitter
Share on linkedin
Share on pinterest
Share on tumblr

Tư vấn trực tuyến

Bài viết liên quan

Giải đáp thắc mắc

ĐOÀN LUẬT SƯ HÀ NỘI

CÔNG TY LUẬT DRAGON

Giám đốc – Thạc sĩ Luật sư:  Nguyễn Minh Long

Công ty luật chuyên:

Hình sự – Thu hồi nợ – Doanh nghiệp – Đất Đai – Trọng tài thương mại – Hôn nhân và Gia đình.

  • Văn phòng luật sư quận Cầu Giấy:  Phòng 6 tầng 14 tòa nhà VIMECO đường Phạm Hùng, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
  • Văn phòng luật sư quận Long Biên: Số 24 ngõ 29 Phố Trạm, Phường Long Biên, Quận Long Biên, Hà Nội
  • Điện thoại: 1900 599 979 / 098.301.9109Email: dragonlawfirm@gmail.com

Hệ thống Website:

#luatsubaochua, #luatsutranhtung, #luatsuhinhsu, #luatsugioibaochua, #luatsubaochuahanoi, #luatsubaochuahaiphong

Điều luật tham khảo

Văn bản luật

Thủ tục liên quan đến thuê luật sư

Chi phí thuê luật sư bào chữa vụ án hình sự

Luật hình sự là quan hệ xã hội phát sinh giữa Nhà nước và người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội khi các chủ thể này thực hiện tội phạm. Theo quy định tại Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, những người có quyền nhờ luật sư bào chữa bao gồm:

  • Người bị bắt.
  • Người bị tạm giữ.
  • Bị can.
  • Bị cáo.
  • Bị hại.
  • Nguyên đơn dân sự.
  • Bị đơn dân sự.
  • Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.

Ngoài những đối tượng trên, theo quy định tại Điều 27 Luật Hình sự năm 2012, người đại diện hoặc người thân thích của người bị buộc tội cũng có quyền được nhờ luật sư bào chữa cho người bị buộc tội.

Quá trình tố tụng bắt đầu từ giai đoạn điều tra – truy tố – xét xử – thi hành án. Bất kể một cá nhân, đại diện, tổ chức nào ngay khi nhận được giấy mời, giấy triệu tập của cơ quan điều tra hoặc tại bất kỳ thời điểm nào trong quá trình tố tụng nêu trên đều có quyền và cần thiết phải nhờ sự hỗ trợ của luật sư.

Tuy nhiên, vì quá trình tố tụng kéo dài đói hỏi người bảo vệ quyền lợi cho thân chủ phải là người đồng hành cùng thân chủ trong xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự. Do đó, thời điểm tốt nhất để có thể nhờ luật sư bào chữa là ngay khi nhận được giấy triệu tập từ cơ quan điều tra. Vì, khi đó, luật sư có thể can thiệp pháp lý và bảo vệ cho thân chủ ngay từ giai đoạn đầu tiên.

Luật sư hình sự sẽ giúp ích gì cho bạn?

Luật sư hình sự tham gia vào vụ án hình sự trong suốt quá trình tố tụng từ sơ thẩm đến phúc thẩm hoặc có thể trong giai đoạn tái phẩm hoặc giám đốc thẩm với vai trò là người được nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự ủy quyền tham gia vụ án hoặc là người bảo vệ quyền và lợi ích cho thân chủ.

Tham gia vào ngay từ giai đoạn xác minh ban đầu, khi có giấy triệu tập và trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, luật sư hình sự có những nhiệm vụ sau:

  • Nghiên cứu, xác minh, thu thập chứng cứ theo quy định pháp luật để bảo vệ thân chủ. Đây là một trong những quyền và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 73 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
  • Đóng vai trò là người bảo vệ cho thân chủ tại những phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Giúp phiên tòa có cái nhìn khách quan hơn về động cơ, hoàn cảnh của thân chủ.
  • Luật sư hình sự là người am hiểu pháp luật, vận dụng những kỹ năng của một người luật sư, linh hoạt, mềm dẻo trong quá trình làm việc với cơ quan điều tra, cơ quan tiến hành tố tụng, giúp bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho thân chủ của mình.
  • Luật sư hình sự sẽ là người tư vấn đưa ra những giải pháp tốt nhất, đảm bảo đúng quy định pháp luật cho thân chủ của mình.

Vì sao bị can/bi cáo nên nhờ/thuê luật sư hình sự ngay từ ban đầu?

  • Từ khi bị triệu tập, nghi vấn phạm tội: có thể thuê luật sư ngay từ đầu để bảo vệ quyền lợi, có thể bị hình sự hóa trong quan hệ hình sự trong quá trình điều tra xét xử.
  • Giai đoạn tạm giam điều tra: Luật sư tiếp xúc trực tiếp với bị can/thân chủ hỏi cung, đối chất, đề xuất, kiến nghị tới cơ quan tiến hành tố tụng, yêu cầu họ thực hiện đúng quy định pháp luật để bảo cho thân chủ.
  • Tham gia bảo vệ (bào chữa) cho thân chủ tại những phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Giúp phiên tòa có cái nhìn khách quan hơn về động cơ, hoàn cảnh của thân chủ.
  • Luật sư hình sự là người am hiểu pháp luật, vận dụng những kỹ năng của một người luật sư, linh hoạt, mềm dẻo trong quá trình làm việc với cơ quan điều tra, cơ quan tiến hành tố tụng, tranh tụng giúp bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho thân chủ của mình.
  • Luật sư hình sự sẽ là người tư vấn đưa ra những giải pháp tốt nhất, đảm bảo đúng quy định pháp luật cho thân chủ của mình.

Đối với người bị hại thì Luật sư hình sự sẽ giúp ích những gì?

  • Luật sư thu thập chứng cứ
  • Tư vấn pháp luật hình sự cho người bị hại hiểu được hành vi của bi can/bị cáo biết được tội danh mà cơ quan điều tra khởi tố với người phạm tội đã đúng hay chưa
  • Giúp cho người bị hại soạn thảo các đơn từ kiến nghị để việc khởi tố/truy tố đối với bị can gây ra thương tích, gây ra thiệt hại cho người bị hại là “đúng người đúng tội”
  • Vấn đề về bồi thường: Luật sư tư vấn soạn thảo tính toán mức bồi thường để đưa ra yêu cầu xém xét bồi thường.

Tiêu chí để lựa chọn dịch vụ luật sư hình sự là gì?

Thông thường, mọi người có xu hướng lựa chọn luật sư thông qua quen biết vì cho rằng luật sư thông qua quen biết sẽ có độ tín nhiệm cao hơn hoặc là và có thể “nhờ vả” được. vậy đây có phải là một tiêu chí để lựa chọn luật sư?

Theo quy định tại quy tắc số 5 Quyết định số 201/QĐ-HĐLSTQ của liên đoàn luật sư Việt Nam về quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam thì một trong những quy tắc hành nghề chính là bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng, đây là một trong những quy tắc mà bất kì luật sư nào cũng thuộc nằm lòng.

Hơn nữa, hiện nay cuộc cách mạng cải cách tư pháp đã loại bỏ rất nhiều tiêu cực trong hoạt động tố tụng, quá trình xét xử, theo thông tư liên tịch số 03/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP quá trình xét xử phải được ghi âm ghi hình đảm bảo sự minh bạch rõ ràng tránh những hoạt động, hành vi tiêu cực trong xét xử.

Bất kỳ luật sư nào cũng có nghĩa vụ bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích cho thân chủ của mình, và quy trình hoạt động tố tụng cũng đã được quy định chặt chẽ hơn, các hoạt động tiêu cực cũng từ đó bị triệt tiêu dần. Do đó, yếu tố người thân người quen không phải là một trong những yếu tố, tiêu chí để lựa chọn luật sư, mà tiêu chí để lựa chọn luật sư bao gồm những tiêu chí sau:

  • Luật sư có chuyên môn trong lĩnh vực hình sự, đây là một yếu tố quan trọng của một luật sư hình sự vì phải hiểu rõ lý luận pháp luật, cập nhật thường xuyên những thay đổi của pháp luật, am hiểu cơ chế hoạt động điều tra thì mới có thể bảo vệ tốt cho thân chủ của mình.
  • Luật sư có kinh nghiệm trong hoạt động tố tụng hình sự, trong thực tiễn và tham gia tố tụng trong nhiều vụ án vì càng tham gia nhiều vụ án thì càng tích lũy được nhiều bản lĩnh, kinh nghiệm thâm niên lâu có thể giải quyết được không chỉ những vấn đề pháp luật mà vấn đề quan hệ với các cơ quan tố tụng, cơ quan điều tra.
  • Thấu hiểu hoàn cảnh, động cơ, lý do, hoàn cảnh của thân chủ ví dụ như: do hoàn cảnh khó khăn, do nền tảng gia đình không tốt, do rơi vào tình thế bắt buộc, … từ đó mới xây dựng được phương án, cung cấp dịch vụ tốt nhất cho thân chủ.
  • Chi phí dịch vụ luật sư, tùy vào từng trường hợp, vụ việc cụ thể chi phí luật sư sẽ khác nhau, có những vụ án có tính chất phức tạp, thì ngoài chi phí luật sư còn nhiều chi phí khác như chi phí giám định thương tích thương tật, giám định tự thi, chi phí dựng hiện trường, … Do đó, Tùy vào từng vụ việc cụ thể và hoàn cảnh của thân chủ để đưa ra mức phí phù hợp.

Phí dịch vụ luật sư hình sự được tính như thế nào?

Một trong những nguyên tắc hành nghề luật sư phải thông báo rõ ràng mức thù lao, chi phí cho khách hàng, tuy nhiên, vì tính chất nhạy cảm của vụ án hình sự, chi phí dịch vụ hình sự không giống như các chi phí dịch vụ luật sư khác, không có mức phí cố định, rõ ràng.

Như đã đề cập ở trên, tùy vào từng trường hợp cụ thể của vụ việc mà phí dịch vụ luật sư sẽ khác nhau. Chi phí luật sư trong vụ án hình sự rất phức tạp, tùy vào từng sự việc, luật sư đưa ra mức chi phí cụ thể, do đó, quý khách hàng cần phải gặp trực tiếp với luật sư của công ty luật để có thể trao đổi và đánh giá tính phức tạp của vụ việc mới có thể đưa ra được mức phí phù hợp

Ngoài chi phí dịch vụ luật sư, còn có những khoản phí riêng khác, không nằm trong chi phí dịch vụ luật sư như:

  • Chi phí giám định thương tật
  • Chi phí cho người làm chứng
  • Chi phí bồi thường dân sự

Có cam kết kết quả trong vụ án hình sự không?

Công ty luật Dragon của chúng tôi đảm bảo thực hiện công việc theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định và đảm bảo tuân thủ đúng 27 quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam theo quy định tại Quyết định số 201/QĐ-HĐLSTQ ngày 13/12/2019 của Hội Đồng luật sư toàn quốc.

Công ty chúng tôi luôn đặt quyền lợi khách hàng lên đầu, cam kết giữ bí mật những thông tin liên quan đến khách hàng, đem những hiểu biết, kinh nghiệm trong hoạt động tố tụng hình sự, sự tận tâm, nhiệt tình của mình đến cho khách hàng.

Trên đây là toàn bộ nội dung bài giới thiệu dịch vụ luật sư hình sự và hướng dẫn cách chọn luật sư hình sự. Quý khách hàng nếu có nhu cầu sử dụng dịch vụ luật sư hình sự của công ty chúng tôi hoặc có thắc mắc về chính sách dịch vụ luật sư của công ty vui lòng liên hệ hotline 098.301.9109 để được tư vấn và hỗ trợ kịp thời.

Luật Dragon nhận hỗ trợ “tư vấn” trực tuyến 24/24 qua các hình thức như sau:

  • Tư vấn pháp luật qua EMAIL: congtyluatdragon@gmail.com
  • Tư vấn pháp luật qua FACEBOOK: Fanpage Luật Dragon
  • CÔNG TY LUẬT DRAGON

    LUÔN ĐỒNG HÀNH CÙNG QUÝ KHÁCH!

    TRỤ SỞ CHÍNH CÔNG TY LUẬT DRAGON:

    Add: Phòng 14.6, Tòa nhà Vimeco, Lô 9E, Đường Phạm Hùng, Quận Cầu Giấy, Hà Nội.

    Tel: 1900. 599. 979

    VĂN PHÒNG ĐẠI DIỆN LUẬT SƯ TẠI QUẬN LONG BIÊN:

    Add: Số 24 ngách 29 Phố Trạm phường Long Biên, quận Long Biên, thành phố Hà Nội

    Tel : 1900. 599. 979

    VĂN PHÒNG LUẬT SƯ TẠI HẢI PHÒNG:

    Add: Số 102, Lô 14 đường Lê Hồng Phong, Phường Đằng Lâm,Quận Hải An, Hải Phòng.

    Tel : 1900. 599. 979

    VĂN PHÒNG LUẬT SƯ TẠI TP HCM:

    Tel : 1900. 599. 979

    =====================

    BAN GIÁM ĐỐC CÔNG TY LUẬT DRAGON:

    Luật Sư Nguyễn Minh Long

    Điện Thoại: 098.301.9109

    Email: dragonlawfirm@gmail.com

Quy trình giải quyết vụ án hình sự

Từ khóa: thuê luật sư vụ án hình sự,Giá thuê luật sư,Chi phí thuê luật sư vụ án hình sự,Có nên thuê luật sư,Chi phí thuê luật sư có được bồi thường,Hợp đồng thuê luật sư,Chi phí thuê luật sư bào chữa, chi phí thuê luật sư bào chữa

Luật sư bào chữa giỏi tại Hải Phòng

Xã hội càng phát triển, nghề luật sư càng có vai trò quan trọng. Hằng ngày, nhiều tranh chấp, kiện tụng phát sinh và luật sư phải đứng ra tranh đấu để bảo vệ lẽ phải, công lý.

Bảo vệ lẽ phải

Luật sư Nguyễn Minh Long ở Văn phòng luật sư Dragon (Chi nhánh Hải Phòng) đã có gần 10 năm gắn bó với nghề. Giống như nhiều đồng nghiệp khác, công việc trong ngày của anh khá bận rộn và luôn phải di chuyển. Từ việc xếp lịch gặp khách hàng, lịch làm việc tại tòa án, đi thu thập chứng cứ… đều được anh thực hiện một cách cẩn trọng. Nhiều khi các luật sư còn trở thành chuyên gia tâm lý giúp thân chủ và người nhà yên tâm, tin tưởng vào lẽ phải.

Luật sư Long cho biết: “Nhiệm vụ của chúng tôi là bảo vệ công lý và lẽ phải. Vì vậy, mỗi vụ việc đều phải được tìm hiểu một cách kỹ lưỡng, chính xác, mất nhiều thời gian, công sức. Chỉ cần một sai sót cũng có thể dẫn đến những hậu quả khó lường”.

Giữ tâm trong sáng

Luật sư Long chia sẻ, hơn 10 năm gần đây, xã hội, con người có nhiều thay đổi, phát sinh nhiều mâu thuẫn phức tạp. Các vụ án liên quan đến kinh tế, hình sự, tranh chấp đất đai, hôn nhân – gia đình xảy ra nhiều hơn, phức tạp hơn. Vì thế, công việc của giới luật sư cũng vất vả gấp nhiều lần. Tuy nhiên, anh quan niệm phải luôn giữ tâm trong sáng để mỗi vụ việc đều được xử lý chính xác, theo đúng pháp luật. Nhiều lúc, các luật sư còn trở thành chuyên gia tư vấn  miễn phí.

Năm 2012, luật sư Long nhận tư vấn thủ tục ly hôn cho một phụ nữ ngoài 50 tuổi ở Quận Hồng Bàng. Do người chồng làm thợ xây nên hay đi nhiều nơi, có quan hệ phức tạp, về nhà thường chửi mắng vợ con. Không chịu nổi tình cảnh này, người vợ quyết định ly hôn. Qua tiếp xúc và tìm hiểu câu chuyện, anh Phán nhận thấy vẫn có cơ hội cứu vãn cuộc hôn nhân này. Bằng vốn kinh nghiệm qua từng vụ án và đời sống thường ngày, anh phân tích, giảng giải để người phụ nữ kia hiểu được điều hơn, thiệt. Lúc đầu, người phụ nữ này không nghe mà cương quyết đưa chồng ra tòa. Tuy nhiên, sau nhiều lần tiếp xúc, động viên, phân giải, họ đã chữa lành được vết thương, bỏ qua những lỗi lầm để hàn gắn trở lại.

Một số người vẫn hay nghĩ luật sư là nghề có nhiều quan hệ, kiếm được nhiều tiền nhưng thực tế những khó khăn, vất vả chỉ có người trong nghề mới hiểu hết. Để có thể trở thành một luật sư phải trải qua một thời gian dài học tập và đào tạo. Theo quy định, ngoài tấm bằng cử nhân, luật sư phải qua lớp đào tạo kỹ năng hành nghề luật sư, thời gian tập sự và thi qua kỳ thi kết thúc tập sự. Thời gian này tối thiểu là 6 năm hoặc có thể kéo dài hơn. Có người theo đuổi cả chục năm mới trở thành một luật sư.

Luật sư Long cho biết: “Công việc vất vả lắm nhưng thu nhập của anh em luật sư cũng chỉ đủ sống. Nhiều khi gặp trường hợp khó khăn, người cao tuổi, gia đình chính sách, chúng tôi chỉ làm giúp chứ không nhận phí. Gặp người tốt, sau khi tư vấn hay hoàn tất vụ việc thì họ đến có lời cảm ơn. Nhưng cũng có trường hợp mình thấy vấn đề của họ khiếu nại là sai, phân tích để nhận ra lẽ phải thì họ phản ứng ra mặt, thậm chí còn có những lời nói không đúng mực. Dù vậy, chúng tôi vẫn luôn giữ vững cái tâm với nghề”.

Công việc vất vả nên không phải ai cũng gắn bó được với nghề. Vì thế, người trẻ thường ít chọn học luật và đầu tư thời gian, chất xám để trở thành luật sư. Hiện nay, Hải Phòng có hơn 100 luật sư đang hành nghề, trong đó có khoảng 30 người là người cao tuổi, đã nghỉ hưu. Chỉ có tình yêu nghề mới giúp họ gắn bó với nghề luật sư trong thời gian dài. Mặc dù khó khăn là thế nhưng các luật sư như anh Long  luôn tin rằng nghề luật sư sẽ có triển vọng trong tương lai vì góp phần bảo đảm công bằng xã hội.

Văn phòng luật sư Dragon Hải Phòng

Khi nào cần thuê luật sư bào chữa

Thuê luật sư là việc người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị buộc tội, bị can, bị cáo và người thân thích của họ là cha, mẹ, vợ, con, ông, bà… thuê luật sư bào chữa cho trường hợp của gia đình nhà mình

Vai trò của Luật sư, luật sư tham gia vụ án hình sự với vai trò là người bào chữa, khi thực hiện bào chữa cho người bị buộc tội, người bị tạm giữ, người bị tạm giam, bị can, bị cáo trong tất cả các giai đoạn từ Điều tra vụ án, khởi tố vụ án, Truy tố vụ án và xét xử vụ án, luật sư sẽ thực hiện các quyền bào chữa để bảo chữa cho các bị can, bị cáo.

Thuê luật sư bào chữa cho người bị bắt là trường hợp người bị tình nghi hay còn gọi là nghi can có thể bị bắt quả tang hoặc bị tạm giữ song bắt hoặc bị mời về làm việc tại trụ sở cơ quan điều tra song bắt, trong tường hợp này người bị bắt có quyền thuê luật sư để bào chữa cho mình. Việc luật sư tham gia bào chữa từ giai đoạn này là hết sức cần thiết vì tham gia ngay từ ban đầu sẽ bảo đảm được quyền của người bị bắt cũng như làm sáng tỏ các sự kiện khách quan của vụ án

Thuê luật sư bảo chữa cho bị can khi phạm tội Khi một ai đó có hành vi phạm tội đã bị cơ quan Cảnh sát điều tra, cơ quan Công an khởi tố vụ án và khởi tố bị can, lúc đó người bị khởi tố trở thành bị can và có quyền mời luật sư bào chữa cho mình để tham gia vào vụ án. Luật sư khi tham gia bào chữa cho bị can sẽ giúp đỡ bị can về mặt pháp luật, sử dụng các biện pháp cần thiết và hợp pháp để bảo vệ bị can. Quá trình bào chữa của luật sư cho bị can từ khi bị mời lên làm việc, khi bị khởi tố tại cơ quan Điều tra, khi bị Viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền truy tố bị can bằng Bản cáo trạng và cho đến khi Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử. nói như vậy không có nghĩa là luật sư sẽ chấm dứt tư cách bào chữa cho bị can mà tư cách của bị can được chuyển sang thành tư cách Bị cáo.

Thuê luật sư bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa: Khi một bị can hay người bị buộc tội bị Tòa án nhân dân có thẩm quyền có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì lúc đó được chuyển sang một tư cách mới là tư cách bị cáo, Luật sư người bào chữa tiếp tục bào chữa cho bị cáo trong toàn bộ quá trình xét xử vụ án ở giai đoạn sơ thẩm hoặc phúc thẩm nếu bị cáo có kháng cáo và tiếp tục mời luật sư bào chữa cho mình. Luật sư bào chữa cho bị cáo có những quyền và nghĩa vụ nhất định, tư vấn và hỗ trợ pháp lý cũng như trao đổi với bị cáo để sao cho bào chữa cho bị cáo được tốt nhất.

Thuê luật sư tham gia vụ án hình sự là trường hợp đã xác định một vụ án hình sự, vụ án có thể hình thành từ giai đoạn khởi tố vụ án, khởi tố bị can và tiến hành điều tra hoặc có thể vụ án đã được Viện kiểm sát có thẩm quyền tiến hành xem xét truy tố ra tòa án và cũng có thể vụ án đã được tòa án chuẩn bị đưa ra xét xử sơ thẩm hoặc xét xử phúc thẩm. Luật sư tham gia vào vụ án hình sự sẽ thực hiện các nhiệm vụ quyền hạn của người bào chữa để nghiên cứu hồ sơ và bào chữa cho người được bào chữa.

Thuê luật sư bảo vệ cho người bị hại trong vụ án hình sự: Trong vụ án hình sự liên quan đến thiệt hại luật sư sẽ tham gia bảo vệ quyền và lợi ích của người bị hại, tham gia và các giai đoạn tố tụng tại Cơ quan Điều tra, Công an, Viện Kiểm sát và Tòa án; sao chụp hồ sơ tài liệu, thu thập chứng cứ và đưa ra cũng như bảo vệ các yêu cầu về bồi thường thiệt hịa cho người bị hại. Trong quá trình tranh tụ tại Tòa án, Luật sư sẽ phát biểu quản điểm luận tội đối với các bị cáo đã gây ra cho bị hại; nếu vụ án cần phải kháng cáo luật sư sẽ giúp bị hại thực hiện việc kháng cáo bản án theo quy định.

Thuê luật sư bào chữa cho người chưa thành niên, người chưa thành niên khi phạm tội là người dưới 18 tuổi, theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự thì đây là những người đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (14 tuổi) nhưng chưa thành niên (dưới 18 tuổi) khi phạm tội thì bắt buộc phải có luật sư. Thông thường bố mẹ hoặc người đại diện hợp pháp hay người giám hộ sẽ thuê luật sư bào chữa. Trường hợp không thể có điều kiện thuê luật sư thì cơ quan tiến hành tố tụng sẽ yêu cầu Đoàn luật sư chỉ định luật sư bào chữa. Đây là quyền cơ bản của người dưới thành niên để có thể bào chữa cho hộ được tốt nhất.

Luật sư bào chữa để trả hồ sơ điều tra bổ sung là trường hợp luật sư tham gia bào chữa cho bị can, bị cáo trong vụ án hình sự và vào từng giai đoạn cụ thể có thể là giai đoạn truy tố tại Viện kiểm sát, Luật sư kiến nghị việc trả hồ sơ cho cơ quan Điều tra để tiến hành điều tra bổ sung hoặc sau khi Viện kiểm sát đã quyết định truy tố bằng Bản cáo trạng ra Tòa án có thẩm quyền thì Luật sư kiến nghị Thẩm phán thụ lý vụ án ra Quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung hoặc Tại phiên tòa luật sư bào chữa để Hội đồng xét xử trả hồ sơ điều tra bổ sung.

Giai đoạn mà luật sư có quyền tham gia theo quy định tại Bộ luật TTHS, Luật Luật sư và các văn bản pháp luật liên quan, cụ thể:

I. Giai đoạn tố tụng mà luật sư có thể tham gia

Theo quy định tại khoản 2 Điều 72 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 (BLTTHS) thì người bào chữa có thể là:

“a) Luật sư;

b) Người đại diện của người bị buộc tội;

c) Bào chữa viên nhân dân;

d) Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý.”

Bên cạnh đó, Điều 74 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định về thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng như sau:

“Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can.

Trường hợp bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ.

Trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.”

Căn cứ những quy định trên, luật sư có thể tham gia tố tụng để bào chữa cho em bạn khi em bạn hoặc gia đình bạn có giấy mời luật sư sau đó Luật sư sẽ tiến hành những thủ tục cần thiết để được cấp Giấy chứng nhận bào chữa theo quy định của BLTTHS và những văn bản có liên quan.

II. Quyền hạn của Luật sư (người bào chữa)

Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa được quy định cụ thể tại Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 như sau:

“1. Người bào chữa có quyền:

a) Gặp, hỏi người bị buộc tội;

b) Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can;

c) Có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này;

d) Được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này;

đ) Xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình, quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;

e) Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế;

g) Đề nghị tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này; đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

h) Thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

i) Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;

k) Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản;

l) Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa từ khi kết thúc điều tra;

m) Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa;

n) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

o) Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất theo quy định của Bộ luật này.

Bạn có thể tham khảo thêm nội dung tư vấn áp dụng văn bản pháp luật theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003:

I. Giai đoạn tố tụng mà luật sư có thể tham gia

Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) thì người bào chữa có thể là:

1.  Luật sư;

2.  Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;

3.  Bào chữa viên nhân dân.

Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 58 BLTTHS có quy định: Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can, Trong trường hợp bắt người theo quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.

Căn cứ những quy định trên, luật sư có thể tham gia tố tụng để bào chữa cho em bạn khi em bạn hoặc gia đình bạn có giấy mời luật sư sau đó Luật sư sẽ tiến hành những thủ tục cần thiết để được cấp Giấy chứng nhận bào chữa theo quy định của BLTTHS và những văn bản có liên quan.

II. Quyền hạn của Luật sư (người bào chữa)

Theo quy định tại khoản 2 Điều 58 BLTTHS thì Luật sư (người bào chữa) có quyền:

1.  Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;

2.  Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can;

3.  Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này;

4.  Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác;

5.  Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

6.  Gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam;

7.  Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật;

8.  Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà;

9.  Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

10. Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Thuê luật sư bào chữa hình sự ở Hà Nội

Gọi cho một luật sư chuyên hình sự tại Hà Nội : 1900. 599. 979

Bạn đã bị buộc tội về một tội ác mà bạn đã không phạm phải và tìm kiếm công lý nhanh chóng và không bị tổn thương trong khi duy trì danh dự và nhân phẩm của bạn? Hoặc, có lẽ bạn đã là nạn nhân của một tội ác và tìm kiếm sự trừng phạt hợp pháp đối với những người đã làm hại bạn hoặc gia đình bạn. Bạn thậm chí có thể tự mình phạm tội và mong muốn giải quyết tốt nhất có thể. Bất kể nguyên nhân hay động cơ, Văn phòng Luật sư Dragon sẽ tạo điều kiện cho công lý nhanh chóng và phù hợp cho các khách hàng tại Hà Nội và Hải Phòng của chúng tôi để họ nhận được phán quyết tốt nhất có thể.

Đó là, nếu bạn đã bị nhà nước buộc tội theo bộ luật hình sự, bắt buộc phải xuất hiện trước cơ quan quản lý hoặc muốn kháng cáo quyết định, Văn phòng Luật sư Dragon sẽ luôn cung cấp cho bạn sự hài lòng hoàn toàn. Hơn nữa, chúng tôi tính phí trên cơ sở lãi suất cố định để bạn nhận thức đầy đủ về các khoản chi tiêu trước khi chúng tôi thực hiện trường hợp của bạn. Bạn sẽ không bao giờ phải lo lắng về các cáo buộc ẩn hoặc những bất ngờ khó chịu khác trước và sau khi phán quyết được đưa ra.

Hơn nữa, Văn phòng Luật sư Dragon sẽ luôn bảo vệ bạn một cách trung thực và đạo đức. Chúng tôi sẽ sử dụng mọi phương tiện theo ý của chúng tôi để đảm bảo rằng công lý được đáp ứng và bạn sẽ nhận được phán quyết tốt nhất có thể, đưa ra bằng chứng. Văn phòng luật sư Dragon cũng sẽ tham khảo đầy đủ với bạn về các tùy chọn có sẵn và đề xuất lựa chọn tốt nhất cho nhu cầu duy nhất của bạn. Đó là, chúng tôi luôn đặt lợi ích tốt nhất của bạn lên hàng đầu và sẽ thực hiện các bước chủ động để vượt ra ngoài sự đại diện đơn thuần.

Ví dụ, các luật sư hình sự tại Hà Nội của chúng tôi được yêu cầu đăng ký vào các chương trình sáng kiến ​​giáo dục thường xuyên để họ cập nhật kiến thức hiểu biết hệ thống pháp lý – và tất cả các sắc thái của nó – một cách triệt để. Chúng tôi cũng đầu tư vào nghiên cứu và phát triển công nghệ để đảm bảo rằng kiến ​​thức về các đạo luật pháp lý của chúng tôi luôn cập nhật và chính xác.

Do đó, nếu bạn đã bị buộc tội hoặc là nạn nhân của tội phạm, bạn sẽ cần một luật sư pháp lý tốt nhất để đưa ra phán quyết mà bạn mong muốn. Các công tố viên và luật sư hình sự tận tâm, có kinh nghiệm và có trình độ học vấn cao của chúng tôi có một hồ sơ theo dõi thành công đã được chứng minh và có khả năng sẽ tạo điều kiện cho bản án mà bạn và gia đình bạn mong muốn. Hơn nữa, chúng tôi đã xử lý các vụ án hình sự từ rửa tiền đến giết người hàng loạt. Do đó, không có vụ án hình sự nào ở Hà Nội quá tầm thường hay khó khăn đối với các luật sư hình sự tại Văn phòng Luật sư Dragon.

Hãy cho chúng tôi về trường hợp hay vụ việc của bạn

Đại diện tư vấn trực tiếp của chúng tôi luôn sẵn sàng 24/7 để hỗ trợ bạn và có thể lên lịch tư vấn với chuyên gia luật của chúng tôi.

Thuê luật sư bào chữa cho người bị bắt

Thuê luật sư bào chữa cho người bị bắt là trường hợp người bị tình nghi hay còn gọi là nghi can có thể bị bắt quả tang hoặc bị tạm giữ song bắt hoặc bị mời về làm việc tại trụ sở cơ quan điều tra song bắt, trong tường hợp này người bị bắt có quyền thuê luật sư để bào chữa cho mình.

Người bị bắt tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt tạm giữa người bị bắt tạm giữ được nghe, nhận lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, quyết định phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp;

Người bị bắt tạm giữ trong trường hợp khẩn cấp có các quyền:

– Được biết lý do mình bị giữ;

– Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự;

– Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;

– Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

– Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tố tụng kiểm tra, đánh giá và các quyền khác

Người bị bắt tạm giữ có được quyền nhờ luật sư. Theo quy định thì người bị bắt tạm giữ có quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật sư bảo chữa cho mình. Nếu nhờ luật sư bào chữa họ có quyền yêu cầu cơ quan đang thụ lý vụ việc liên hệ luật sư để họ có thể nhờ luật sư bào chữa cho mình, ngoài ra họ cũng có các quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc giữ người, bắt người.

Người bị bắt theo quy định tại Điều 58 Bộ luật Tố tụng hình sự thì là bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc bắt theo quyết định truy nã. Khi bị bắt người bị bắt có các nghĩa vụ chấp hành lệnh bắt người và yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền bắt người theo quy định của pháp luật.

Người bị bắt khi bị bắt có quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật sư bào chữa và một số quyền cơ bản sau:

Được biết lý do mình bị giữ, bị bắt;
Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;
Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tố tụng kiểm tra, đánh giá;
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc giữ người, bắt người. Và một số quyền khác.
Khi bị tạm giữ có được thuê luật sư? Người bị tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ. Ngoài các quyền cơ bản được quy định tại Khoản 2 Điều 59 Bộ luật Tố tụng hình sự thì người bị tạm giữ có quyền tự bào chữa hoặc thuê luật sư bào chữa.

Thuê luật sư bào chữa tại Công ty luật Dragon. Vui lòng liên hệ: 1900.599.979

 

Khi chưa khởi tố mà nhận được giấy triệu tập của công an có nên thuê luật sư bào chữa

Tôi có giấy triệu tập của công an thành phố, liên quan đến tội trộm cắp xảy ra do bạn tôi làm đơn, mặc dù tôi khẳng định tôi không liên quan đến sự việc của bạn tôi mất trộm? mất bao nhiêu tiền? mất ở đâu ? như thế nào? bạn ấy làm đơn vu khống cho tôi.. Tôi bị công an gọi điện mời tôi, tôi vì không hiểu pháp luật nên đã ký hợp đồng thuê luật sư bào chữa bảo vệ cho tôi, đến lịch hẹn làm việc theo giấy triệu tập? Luật sư của tôi đi cùng tôi đến xuất trình tại công an điều tra như giấy giới thiệu, đơn mời luật sư bào chữa và thẻ luật sư, nhưng bên công an đã từ chối không cho luật sư bào chữa cho tôi tham gia với lý do, hiện nay chưa khởi tố vụ án, chưa khởi tố tôi, công an chỉ mời lên làm rõ sự việc, công an đề nghị tôi và luật sư bổ sung thêm hợp đồng dịch vụ pháp lý? Lúc đấy tôi thấy luật sư bảo tôi cứ làm việc với công an và luật sư bỏ ra về. Tôi rất hoang mang và đã bị sốc nên từ chối không làm việc với công an và xin hẹn buổi khác, tôi có nói với công an là phải có luật sư thì tôi mới làm việc sau đó tôi đi về. Luật sư của tôi không giải thích cho tôi biết lý do và ý kiến của cơ quan điều tra đúng hay sai? Nay tôi nhờ luật sư tư vấn ý kiến của công an như vậy có đúng không? luật sư bảo vệ cho tôi làm như vậy có đúng không? Tôi rất hoang mang khi tìm chọn một công ty luật có uy tín mà lại có một luật sư hành xử như vậy? Rất mong Công ty luật Dragon tư vấn gấp cho tôi.

Phúc đáp yêu cầu tư vấn pháp luật của anh/chị, đề nghị cho ý kiến về một số nội dung pháp lý liên quan đến việc: người bị kiến nghị khởi tố/bị tố giác có được mời Luật sư không, Luật sư Công ty luật Dragon có ý kiến như sau:

*) Đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác:

Theo như trình bày thì anh/chị đang bị tố giác về hành vi trộm cắp tài sản. Khoản 1 Điều 83 Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác là người được người bị tố giác nhờ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Luật sư là một trong những người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác (điểm a khoản 2 Điều 83 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015). Như vậy, anh/chị có quyền mời Luật sư để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình ngay từ khi bị tố giác (từ khi chưa có quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can).

Khoản 1 Điều 27 Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi bổ sung năm 2012) quy định: “Hoạt động tham gia tố tụng của luật sư phải tuân theo quy định của pháp luật về tố tụng và Luật này”.

Bộ Luật Tố tụng hình sự không quy định rõ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác phải xuất trình những giấy tờ gì khi làm việc với Cơ quan Cảnh sát điều tra. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm làm việc thực tế của Luật sư và quy định tại điểm a khoản 2 Điều 78 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì những giấy tờ Luật sư cần xuất trình khi làm việc với Cơ quan CSĐT là: Giấy giới thiệu của công ty luật cử luật sư đến cơ quan điều tra làm việc, Thẻ luật sư kèm theo bản sao có chứng thực và giấy yêu cầu đơn mời luật sư của người bị tố giác ( anh chị cũng như Luật sư không phải xuất trình Hợp đồng dịch vụ pháp lý).

Như vậy, việc công an từ chối không cho luật sư tham gia với lý do: hiện nay chưa khởi tố vụ án, chưa khởi tố bị can, công an chỉ mời lên làm rõ sự việc và đề nghị anh và luật sư bổ sung thêm hợp đồng dịch vụ pháp lý là vi phạm tố tụng.

*) Quyền của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác:

Khoản 3 Điều 83 Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 quy định: Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác có quyền:

  1. a) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
  2. b) Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
  3. c) Có mặt khi lấy lời khai người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố và nếu được Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên đồng ý thì được hỏi người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố. Sau mỗi lần lấy lời khai của người có thẩm quyền kết thúc thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có quyền hỏi người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố;
  4. d) Có mặt khi đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố;

đ) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Luật sư bào chữa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của anh/chị không đưa ra ý kiến nào và bỏ về khi bị công an từ chối là không thực hiện quyền của mình theo quy định trên. Không bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp tốt nhất cho khách hàng. Việc anh/chị từ chối không làm việc với công an, xin hẹn buổi khác và nói với công an là phải có luật sư bào chữa cho anh/chị thì anh/ chị mới làm việc với cơ quan điều tra là đúng với quy định của pháp luật.

Trên đây là quan điểm ý kiến của Thạc sĩ Luật sư Nguyễn Minh Long Giám đốc Công ty Luật Dragon – Đoàn Luật sư TP. Hà Nội về nội dung vụ viêcj trên.

Để biết thêm thông tin chi tiết bạn có thể liên hệ với Luật sư Hà Nội và Luật sư Hải Phòng theo địa chỉ dưới đây.

  1. Trụ sở chính Công ty Luật Dragon tại quận Cầu Giấy:  Phòng 6, Tầng 14, Tòa nhà VIMECO, Đường Phạm Hùng, Phường Trung Hòa, Quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội.
  2. VPĐD luật sư Công ty luật Dragon tại quận Long Biên: Số 24 Ngõ 29 Phố Trạm, phường Long Biên, quận Long Biên, Tp Hà Nội.
  3. Chi nhánh Công ty Luật Dragon tại Hải Phòng: Phòng 6 tầng 4 Tòa Nhà Khánh Hội, đường Lê Hồng Phong, quận Hồng Bàng, Tp Hải Phòng.

Công ty Luật Dragon cung cấp biểu phí và thù lao luật sư bào chữa tham khảo tại đây

Trân trọng!

CÔNG TY LUẬT DRAGON

Luật sư chuyên bào chữa vụ án hình sự

ĐIỀU LUẬT

ÁN LỆ