1900599979

Tư tưởng cải cách tư pháp, mở rộng tranh tụng tại phiên tòa là khâu đột phá trong hoạt động tố tụng nước ta. Tư tưởng này đã được sự ủng hộ đông đảo của xã hội, từ đó nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động tố tụng, tạo nên không khí dân chủ trong xã hội, nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng (THTT) và những người THTT, góp phần làm hạn chế tình trạng oan, sai trong tố tụng hình sự (TTHS) và vi phạm pháp luật (VPPL) trong tố tụng dân sự, tố tụng hành chính. Cụ thể như pháp luật TTHS đã quy định vị trí, vai trò chức năng của Viện kiểm sát (VKS) theo hướng phân định rõ chức năng buộc tội là chức năng cơ bản, chủ yếu so với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, và chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật dần dần được thu hẹp lại. Quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của bên buộc tội, các quyền và nghĩa vụ của bên gỡ tội, tạo điều kiện thuận lợi cho các bên tranh tụng bình đẳng trong quá trình tố tụng. Để nâng cao chất lượng xét xử, bảo đảm sự tranh tụng bình đẳng giữa các bên trong tố tụng, pháp luật tố tụng quy định ngoài các quyền của người bị buộc tội còn quy định rõ về trách nhiệm chứng minh tội phạm của cơ quan THTT, mở rộng quyền bào chữa, trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa.
1.Những khiếm khuyết
Bên cạnh những thành tựu đạt được, tranh tụng trong tố tụng ở nước ta vẫn còn những khiếm khuyết sau:
Mô hình tố tụng của nước ta hiện nay về cơ bản áp dụng mô hình tố tụng xét hỏi, tranh tụng vẫn chưa thực sự được quan tâm trên cả phương diện nhận thức, lý luận, lập pháp và áp dụng pháp luật. Pháp luật chưa thực sự ghi nhận tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản trong hoạt động tố tụng, tư tưởng tranh tụng chưa được nhà làm luật thể hiện xuyên xuốt trong quá trình hoạt động tố tụng, mà tranh tụng mới chỉ được thể hiện một phần khiêm tốn tại phiên tòa, chưa được thể hiện từ giai đoạn khởi tố, điều tra và truy tố.
Pháp luật tố tụng hiện hành quy định về vị trí, vai trò, chức năng của các cơ quan THTT, người THTT chưa thực sự được minh bạch, rõ ràng, nên có sự mâu thuẫn, lẫn lộn về chức năng nhiệm vụ của các cơ quan THTT. Ví dụ như, VKS vừa thực hiện chức năng buộc tội (là chủ thể của một bên tranh tụng) lại vừa thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng (cũng là chủ thể của một bên tranh tụng) và kiểm sát cả hội đồng xét xử (HĐXX), không khác nào “vừa đá bóng vừa thổi còi”. Còn Tòa án là cơ quan trọng tài, xét xử nhưng lại có quyền khởi tố vụ án hình sự, có quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung, có trách nhiệm chứng minh tội phạm và vẫn phải nghị án khi VKS rút toàn bộ cáo trạng…
Việc tổ chức phiên tòa theo yêu cầu của cải cách tư pháp chưa được đề cao và toàn diện, tranh tụng chưa thực sự được tôn trọng và dân chủ. Kiểm sát thực hành quyền công tố tại phiên tòa chưa đáp ứng được yêu cầu của tranh tụng, kiểm sát viên còn ít tham gia vào quá trình xét hỏi, chưa tích cực tranh luận, phản biện, đối đáp với bên đối lập để bảo vệ quan điểm buộc tội. Chất lượng tranh tụng của kiểm sát viên với người bào chữa còn hạn chế, đôi khi còn hình thức, không coi tranh tụng là trách nhiệm, nghĩa vụ của mình, là phương tiện để tìm ra chân lý, thiếu chủ động trong tranh tụng, thậm chí không tranh luận mà thường phát biểu là giữ nguyên cáo trạng cho an toàn, để tránh các trường hợp có khả năng phát sinh hoặc chưa được làm rõ. Vai trò của người bào chữa một mặt chưa được tôn trọng, ý kiến của người bào chữa đưa ra không được kiểm sát viên phản hồi, phản biện, tranh tụng hoặc chuyển đẩy cho HĐXX. Bên cạnh đó, có không ít người bào chữa năng lực còn hạn chế, chất lượng tranh tụng yếu kém, dẫn đến tranh tụng nhiều về vị trí pháp lý của bên đối lập và có tư tưởng cho rằng, chức năng xét xử, ra quyết định hoặc bản án là trách nhiệm của Tòa án. HĐXX nhiều khi làm thay chức năng của bên buộc tội, thời gian HĐXX dành cho việc xét hỏi nhiều hơn là việc lắng nghe hai bên đối lập tranh tụng…
Vai trò, vị trí và hoạt động thực tế của các chủ thể tranh tụng đều chưa thực hiện đúng, HĐXX cụ thể là thẩm phán, chủ tọa phiên tòa điều hành vẫn theo cách thức truyền thống là xét hỏi, áp đặt trên cơ sở tài liệu đã có sẵn trong hồ sơ; thậm chí trong quá trình tranh tụng, HĐXX lại là chủ thể tranh tụng tích cực với người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, làm thay vị trí, công việc của kiểm sát viên. Điều kiện tranh tụng của người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự chưa đáp ứng được các bảo đảm cần thiết cho tranh tụng, như số lượng người bào chữa ít, điều kiện tham gia bào chữa còn khó khăn.
Pháp luật tố tụng chưa xác định rõ vị trí, chức năng của Tòa án là cơ quan trọng tài, phán quyết, do vậy, đã xếp Tòa án vào nhóm các cơ quan THTT (cùng với cơ quan điều tra -CQĐT- và VKS), chánh án, phó chánh án, thẩm phán và hội thẩm, thư ký vào nhóm những người THTT (cùng với thủ trưởng, phó thủ trưởng CQĐT, điều tra viên, viện trưởng, phó viện trưởng VKS, kiểm sát viên). Cách quy định như vậy không hợp lý, không thấy rõ được chức năng, vị trí, vai trò của các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng, từ đó dẫn tới hệ lụy trong hoạt động tố tụng là các cơ quan THTT (CQĐT, VKS, Tòa án) là “chủ thể chính”, còn các chủ thể khác tham gia tố tụng là “chủ thể phụ”. Từ đó cho thấy, chỉ có chủ thể chính mới có quyền thu thập, đánh giá chứng cứ, tiến hành các hoạt động tố tụng, còn các chủ thể phụ không được các quyền đó, nhưng thực chất tất cả đều là những chủ thể tham gia vào quá trình hoạt động tố tụng để hướng tới giải quyết vụ án.
Những quy định tại các Điều 13 Bộ luật TTHS: “Khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì CQĐT, VKS, Tòa án trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm khởi tố vụ án và áp dụng các biện pháp do Bộ luật TTHS quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội”; “HĐXX ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu VKS khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra” (Điều 104 Bộ luật TTHS); “Khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, CQĐT, VKS và Tòa án phải chứng minh có hành vi phạm tội… Ai là người phạm tội…” (Điều 63 Bộ luật TTHS); “Để thu thập chứng cứ, CQĐT, VKS và Tòa án có quyền triệu tập…” (Điều 65 Bộ luật TTHS); “Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ cho VKS để điều tra bổ sung khi cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án, khi có căn cứ cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác” (Điều 179 Bộ luật TTHS) cho thấy, pháp luật TTHS đã xác định Tòa án có trách nhiệm chứng minh và có quyền thu thập chứng cứ để chứng minh tội phạm, đồng nhất trách nhiệm Tòa án với trách nhiệm của CQĐT, VKS là cơ quan buộc tội. Việc quy định Tòa án có quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung, vô hình trung đã giao cho Tòa án làm thay chủ thể buộc tội và cũng là chủ thể buộc tội. Ngoài ra, trong trường hợp Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhưng VKS không chấp nhận yêu cầu và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử. Điều này ảnh hưởng tới nguyên tắc vô tư, khách quan trong chức năng xét xử của Tòa án, kéo dài thời gian tố tụng, ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội.
Trong giai đoạn xét hỏi, pháp luật TTHS quy định theo hướng đặt nặng trách nhiệm xét hỏi lên HĐXX, dẫn đến các cơ quan buộc tội không chủ động, tích cực trong xét hỏi. Điều 207 Bộ luật TTHS quy định: “Khi xét hỏi, chủ tọa phiên tòa hỏi trước rồi đến hội thẩm, sau đó đến kiểm sát viên, người bào chữa…”. Mà đáng lẽ ra cần phải quy định bên buộc tội phải là bên khởi động hỏi trước để bảo vệ, chứng minh cho quan điểm buộc tội của mình là có căn cứ và đúng pháp luật, sau đó đến bên gỡ tội hỏi để bảo vệ, chứng minh cho quan điểm gỡ tội của mình.
Điều 221 Bộ luật TTHS quy định: “Trong trường hợp kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố trước khi nghị án, HĐXX yêu cầu những người tham gia tố tụng tại phiên tòa trình bày ý kiến về việc rút truy tố đó”.  Điều 222 Bộ luật TTHS quy định: “ Trong trường hợp kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố thì HĐXX vẫn giải quyết những vấn đề của vụ án, nếu có căn cứ xác định bị cáo không phạm tội thì HĐXX tuyên bố bị cáo không có tội, nếu thấy việc rút truy tố không có căn cứ  thì quyết định tạm đình chỉ vụ án và kiến nghị với VKS cấp trên trực tiếp”.
Như chúng ta đều biết, quan hệ pháp luật tố tụng luôn luôn và chỉ tồn tại khi có hai chủ thể đối lập xuất hiện và tồn tại, đó là một bên buộc tội, bên yêu cầu và bên kia là bên gỡ tội, bên bác yêu cầu. Cho nên, khi một bên buộc tội, bên yêu cầu rút toàn bộ quyết định truy tố, yêu cầu thì đương nhiên quan hệ tố tụng đó không còn tồn tại và cũng đương nhiên là không tồn tại chức năng xét xử. Việc quy định HĐXX vẫn giải quyết những vấn đề của vụ án là không cần thiết, không phù hợp với tính chất, nguyên tắc của tranh tụng vì trong trường hợp này, quan hệ pháp luật tố tụng không còn chức năng buộc tội, cho nên cũng không cần thiết phải có chức năng gỡ tội và chức năng xét xử.
Pháp luật tố tụng quy định VKS vừa có chức năng buộc tội vừa có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật là không khoa học, không bảo đảm tính khách quan và cũng không bảo đảm cho các yêu cầu của tranh tụng. Việc quy định như vậy cho thấy VKS có quyền kiểm sát cả hoạt động xét xử của HĐXX, không thể hiện đúng vị trí, vai trò của mình là chủ thể buộc tội, là một bên đối lập của tranh tụng. Mặt khác, VKS là bên buộc tội về thực tế đã có nhiều “thế mạnh” hơn bên gỡ tội – “ bên yếu thế”, lại còn có cả quyền kiểm sát tất cả hoạt động của các chủ thể tham gia pháp luật tố tụng, trong khi đó lại không có ai kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS. VKS và CQĐT đều là chủ thể buộc tội nhưng VKS lại không thuộc hệ thống các cơ quan hành pháp, hoạt động công tố tách rời hoạt động điều tra làm cho hoạt động điều tra, truy tố bị rời rạc ảnh hưởng đến chất lượng, phá vỡ tính thống nhất của chức năng buộc tội.
Điều 17 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (TAND) quy định: “TAND tối cao quản lý về mặt tổ chức các TAND địa phương” vô hình trung đã biến TAND tối cao vừa là cơ quan xét xử (phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các quyết định hoặc bản án của TAND địa phương), vừa là cơ quan quản lý nhà nước (bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức thẩm phán, chánh án, phó chánh án TAND các cấp). Mặt khác, thông qua quan hệ hành chính chỉ đạo và điều hành, tính độc lập của các Tòa án địa phương bị ảnh hưởng, tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của thẩm phán không được đảm bảo, mà chúng ta đều biết, trong hoạt động tố tụng không có cấp trên cấp dưới, mà chỉ là cấp 1 (sơ thẩm) cấp 2 (phúc thẩm) và hai cấp đó độc lập với nhau. Bên cạnh đó, khoản 5 Điều 40 Luật Tổ chức TAND quy định thẩm phán bổ nhiệm theo nhiêm kỳ là 5 năm, nên đã tạo ra tình trạng thẩm phán phụ thuộc nhất định vào chính quyền cơ sở, vào Tòa án cấp trên, hội đồng tuyển chọn, từ đó có tác động, ảnh hưởng đến tâm lý, bản lĩnh của thẩm phán trong xét xử, nhất là vào thời điểm chuẩn bị làm hồ sơ tái bổ nhiệm.
Triển khai Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 05/11/2002 TAND tối cao ban hành Kết luận số 290 xác định “Nội dung của tranh tụng là tranh luận làm rõ sự thật khách quan về mọi tình tiết của vụ án, áp dụng đúng những quy định của pháp luật để giải quyết vụ án”. Hướng dẫn này là không khoa học, không đúng với bản chất của tranh tụng, làm không ít cơ quan THTT, những người THTT, những người tham gia tố tụng đồng nhất tranh tụng với tranh luận. Như đã phân tích, tranh tụng có ở tất cả các giai đoạn tố tụng, tranh tụng từ thủ tục thu thập, đánh giá nguồn chứng cứ, triệu tập người vào tham gia tố tụng, thay đổi những người THTT… Còn trong giai đoạn xét xử, tranh luận thì tranh tụng được thể hiện tập trung, điển hình, rõ nét hơn mà thôi, chứ không phải là tranh tụng chỉ có khi lúc tranh luận, hay tranh tụng đồng nghĩa với tranh luận.
2. Hướng hoàn thiện
Sự cần thiết quy định tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hiện nay là một yêu cầu tự nhiên, một tất yếu khách quan. Nhưng việc quy định và áp dụng nguyên tắc tranh tụng như thế nào? Phục vụ các mục tiêu cụ thể gì? Cần phải đặt nó vào trong bối cảnh và với những yêu cầu cụ thể, để phục vụ cho quá trình xây dựng và phát triển đất nước, bảo đảm và phát triển quyền con người, quyền công dân.
Trong giai đoạn hiện nay, yêu cầu cải cách tư pháp mà Nhà nước ta đặt ra mục tiêu là xây dựng một nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ và nghiêm minh, từng bước hiện đại để phục vụ nhân dân, bảo vệ công lý. Như vậy, mục tiêu của cải cách tư pháp là bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền con người, các cơ quan tổ chức tư pháp phải là công cụ có hiệu quả để bảo vệ công bằng, bình đẳng, trật tự, dân chủ và công lý, không chỉ trong đời sống xã hội mà chính ngay trong hoạt động tư pháp, bảo đảm quyền tự do, dân chủ của công dân trong quá trình hoạt động tố tụng. Bảo đảm nguyên tắc mọi phán quyết của Tòa án đều phải dựa trên kết quả của quá trình tranh tụng dân chủ, bình đẳng và công khai.
Việc ghi nhận nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng phải đáp ứng được yêu cầu tạo ra những hành lang pháp lý cụ thể trong việc bảo đảm cho các chủ thể “yếu thế” được thực hiện đầy đủ các quyền của mình mà pháp luật đã ghi nhận trong tất cả các giai đoạn tố tụng. Phải kết hợp hài hòa nguyên tắc tranh tụng với các nguyên tắc cơ bản khác của tố tụng, phải tạo ra sự tác động và hỗ trợ lẫn nhau, đáp ứng các yêu cầu cơ bản của tố tụng là dân chủ, khách quan, bình đẳng… để tạo nên một cơ chế tố tụng công bằng, hiệu quả, nhằm mục đích bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên khi tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng. Bên cạnh đó, việc xây dựng nguyên tắc tranh tụng phải kết hợp hài hòa giữa pháp luật tố tụng truyền thống và pháp luật tố tụng hiện đại trong thời đại hội nhập và toàn cầu hóa. Mặt khác, việc xây dựng nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng cũng chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khách quan, chủ quan, truyền thống, lịch sử, kinh tế, văn hóa… đặc biệt là các nguyên tắc, mô hình tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp nói riêng, bộ máy nhà nước nói chung.
Tranh tụng cần được ghi nhận là một nguyên tắc cơ bản trong tố tụng
Nội dung của nguyên tắc tranh tụng cần thể hiện rõ các vấn đề cơ bản: Hoạt động tố tụng phải được tiến hành trên cơ sở tranh tụng giữa các bên đối lập. Chức năng buộc tội, yêu cầu – chức năng gỡ tội, phản bác yêu cầu – chức năng xét xử , phải độc lập với nhau. Chủ thể buộc tội, yêu cầu – chủ thể gỡ tội, phản bác yêu cầu có quyền bình đẳng với nhau trong việc thu thập tài liệu, đồ vật, chứng cứ, đưa ra các yêu cầu và tranh tụng công khai, dân chủ trong suốt quá trình tố tụng, đặc biệt là trước Tòa án. Tòa án có trách nhiệm cao nhất để tạo ra những điều kiện cần thiết để cho các bên thực hiện được các quyền và nghĩa vụ của mình mà pháp luật quy định. Quyết định hoặc bản án của Tòa án phải được căn cứ vào kết quả tranh tụng bình đẳng, dân chủ, công khai.
Tranh tụng cần được thể chế hóa trong các quy định cụ thể của hoạt động tố tụng
Một là, pháp luật TTHS cần sửa đổi, bổ sung theo hướng tách bạch và phân định rõ các chức năng cơ bản của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật TTHS, đó là chức năng buộc tội – chức năng gỡ tội – chức năng xét xử.
Về chức năng của Tòa án: Theo pháp luật TTHS hiện hành, Tòa án là cơ quan trọng tài, xét xử nhưng lại có quyền khởi tố vụ án hình sự, quyền trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung, có trách nhiệm chứng minh tội phạm và trong trường hợp VKS rút toàn bộ cáo trạng thì HĐXX vẫn phải nghị án… Các quy định như vậy là không khoa học, không bảo đảm cho Tòa án thực sự là trọng tài khách quan, vô tư trong xét xử, nên thiết nghĩ cần phải sửa đổi.
Điều 10 Bộ luật TTHS nên sửa thành “CQĐT, VKS phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có… Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về CQĐT và VKS…”.
Về chức năng của VKS: Theo pháp luật TTHS hiện hành, VKS là cơ quan công tố (chức năng buộc tội) nhưng lại có quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử (kể cả HĐXX). Quy định như vậy là không khoa học, dẫn đến độc quyền, không khách quan trong khi thực hiện chức năng buộc tội. VKS là một bên đối lập của quan hệ pháp luật tố tụng có chức năng buộc tội, lại có quyền kiểm sát chức năng gỡ tội của chủ thể đối lập còn lại, chức năng xét xử của Tòa án. Như vậy, là “vừa đá bóng vừa thổi còi”, nên thiết nghĩ cần phải sửa đổi theo hướng bỏ chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS.
Về chức năng của CQĐT: Pháp luật TTHS cần quy định rõ trách nhiệm của điều tra viên khi THTT, khi hỏi cung thì phải thông báo cho người bị buộc tội có các quyền gì mà pháp luật quy định, quyền được thuê người bào chữa và giới thiệu danh sách người bào chữa để cho người bị buộc tội lựa chọn, có quyền từ chối đưa ra lời khai (quyền im lặng), quyền phản đối việc buộc tội…
Về chức năng gỡ tội: Người bị buộc tội có quyền chứng minh mình không phạm tội, nhưng đây không phải là nghĩa vụ. Đơn giản hóa việc cấp giấy chứng nhận bào chữa cho người bào chữa, giấy chứng nhận bào chữa chỉ cần cấp một lần và có giá trị trong suốt quá trình tham gia hoạt động tố tụng để giải quyết vụ án, khi người bị buộc tội không có yêu cầu thay đổi người bào chữa. Người bào chữa được thông báo và được có mặt trong khi khám xét, thu giữ, kê biên tài sản, khám nghiệm hiện trường, trong khi hỏi cung người bị buộc tội. Pháp luật TTHS nên quy định trình tự, thủ tục thu thập chứng cứ của bên gỡ tội cũng như cơ chế bảo đảm, tạo điều kiện cho hoạt động đó. Mặt khác, cũng nên quy định người bào chữa có quyền mời người làm chứng tham gia tố tụng để làm sáng tỏ sự thật vụ án, có như vậy mới bảo đảm sự bình đẳng trong tranh tụng.
Điều 63 Bộ luật TTHS nên sửa thành: “Khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, CQĐT, VKS phải chứng minh có hành vi phạm tội… Ai là người phạm tội…”. Điều 65 Bộ luật TTHS nên sửa thành: “Để thu thập chứng cứ, CQĐT, VKS  có quyền triệu tập…”.
Để bảo đảm cho người bị buộc tội, người bào chữa thu thập chứng cứ gỡ tội, pháp luật nên quy định cụ thể cơ chế bảo đảm để tạo điều kiện cho họ thực hiện các quyền của mình. Trong tương lai gần, cần ban hành Luật Chứng cứ để làm cơ sở cho sự nhận thức đúng về khái niệm chứng cứ, những chủ thể có quyền thu thập, cung cấp, bảo quản, đánh giá chứng cứ…
Hai là, xuất phát từ bản chất, nguyên tắc, mục đích của tranh tụng, pháp luật TTHS cần sửa đổi theo hướng người bị buộc tội khi bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế nếu không phải trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang thì phải có sự phê chuẩn của Tòa án, theo như quy định hiện nay thuộc về CQĐT và cơ quan VKS là không khách quan, vô tư khi họ đồng thời là chủ thể thực hành chức năng buộc tội, một chủ thể đối lập trong tranh tụng.
Ba là, để bảo đảm tính khách quan và đúng chức năng xét xử của Tòa án, cần sửa đổi Điều 13, Điều 104 Bộ luật TTHS theo hướng bỏ thẩm quyền của Tòa án, của HĐXX trong việc khởi tố vụ án hình sự.
Điều 13 Bộ luật TTHS nên sửa thành: “Khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì CQĐT, VKS trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm khởi tố vụ án và áp dụng các biện pháp do Bộ luật TTHS quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội ”.
Điều 104 Bộ luật TTHS nên sửa thành: “VKS khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra”.
Mặt khác, cần xem xét, sửa đổi theo hướng bỏ thẩm quyền của Tòa án trả hồ sơ cho VKS để điều tra bổ sung. Điều 179 Bộ luật TTHS nên sửa thành: “VKS khi thấy cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án, khi có căn cứ cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác thì đề nghị HĐXX hoãn phiên tòa để điều tra bổ sung”.
Bốn là, để bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, Điều 196 Bộ luật TTHS cần phải nghiên cứu, sửa đổi theo hướng, Tòa án chỉ xét xử người bị buộc tội trong phạm vi cáo trạng của VKS. Người bị buộc tội có quyền hỏi người làm chứng trong hoạt động tố tụng, đặc biệt là trong giai đoạn xét xử.
Năm là, các Điều 217, 218 của Bộ luật TTHS nên quy định một cách cụ thể về quyền và nghĩa vụ của các bên tranh luận tại phiên tòa theo hướng yêu cầu bên đối lập chứng minh những luận cứ mà họ đưa ra, giải thích những vấn đề chưa rõ. Đồng thời quy định người điều khiển phiên tòa phải bảo đảm duy trì cho việc tranh tụng được dân chủ, khách quan và phải tạo điều kiện tối đa cho các bên tranh tụng được trình bày hết những vấn đề họ cần tranh tụng.
Điều 207 Bộ luật TTHS nên sửa thành: “Khi xét hỏi, kiểm sát viên hỏi trước, sau đó đến người bào chữa và những người khác nếu có yêu cầu hỏi khi được chủ tọa phiên tòa đồng ý…”.
Điều 221, 222 Bộ luật TTHS nên sửa thành: “Trong trường hợp kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố trước khi nghị án thì HĐXX tuyên bố người bị buộc tội không phạm tội hoặc  đình chỉ vụ án”.
Xây dựng các biện pháp bảo đảm tranh tụng
Để bảo đảm nguyên tắc tranh tụng được khả thi, cần thiết phải có những biện pháp sau:
Bên cạnh sự cần thiết phải sửa đổi Bộ luật TTHS hiện hành thì đồng thời phải tiến hành sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan. Việc cải cách hệ thống tư pháp phải được xác định theo tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 “Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm”, “Nghiên cứu chuyển VKS thành Viện công tố, tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra”.
Cải cách đồng bộ về tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước tham gia vào hoạt động tố tụng, cụ thể là:
 – Phân định rõ chức năng xét xử của Tòa án với chức năng buộc tội của VKS.
 – Cần có cơ chế cho việc đảm bảo nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án.
 – Cần xem xét lại cơ chế bổ nhiệm thẩm phán theo nhiệm kỳ, cơ chế này làm ảnh hưởng rất lớn tới tính độc lập xét xử của thẩm phán và cũng chính cơ chế này dẫn đến sự buông lỏng, “thư giãn”, tiêu cực, khi thẩm phán ở trong nhiệm kỳ cuối cùng. Tăng nhiệm kỳ của các chức danh tư pháp hoặc chuyển đổi cơ chế nhiệm kỳ sang chế độ bổ nhiệm không thời hạn của điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán.
 – Xác định lại chức năng của VKS, nâng cao năng lực, chất lượng hoạt động của kiểm sát viên. Chuyển đổi mô hình VKS hiện hành thành Viện công tố trực thuộc hệ thống cơ quan hành pháp. Viện công tố là cơ quan chỉ đạo CQĐT trong hoạt động tố tụng, mọi kết luận của CQĐT phải có sự phê chuẩn của Viện công tố, Viện công tố buộc tội tại phiên tòa.
 – Xác định lại chức năng của CQĐT, nâng cao năng lực, chất lượng hoạt động của điều tra viên. CQĐT hỗ trợ, phục vụ cho chức năng công tố của Viện công tố, CQĐT cần được tổ chức theo hệ thống dọc, không nhất thiết phải theo đơn vị hành chính, cũng như cơ quan Tòa án, VKS được thiết kế theo khu vực.
 – Cần có cơ chế phát triển các tổ chức dịch vụ pháp lý, tư vấn pháp lý miễn phí cho người nghèo, hỗ trợ cho nhân dân khi tham gia hoạt động tố tụng, tạo điều kiện phát triển đa dạng các loại hình hành nghề luật sư, nâng cao vị thế, vai trò của luật sư trong nước cũng như ngoài nước.
 – Tăng cường phát triển đội ngũ giám định tư pháp, đẩy mạnh xã hội hóa một số hoạt động bổ trợ tư pháp nhằm mang lại các dịch vụ pháp lý tốt nhất cho nhân dân.
 – Nghiên cứu, xem xét cho phép thành lập các tổ chức thám tử tư để giúp những người tham gia tố tụng thu thập nguồn chứng cứ để nâng cao chất lượng tranh tụng .
Tăng cường công việc đào tạo, đào tạo lại để nâng cao trình độ, kỹ năng, đạo đức của những người THTT, của những người tham gia tố tụng. Đổi mới quy trình tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm các chức danh tư pháp. Xây dựng cơ chế thu hút, sử dụng và có chính sách đãi ngộ người tài, đồng thời có cơ chế sàng lọc, loại bỏ cán bộ yếu kém, không đáp ứng được công việc được giao.
Xây dựng quy chế về đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp và kỷ cương công vụ của những người THTT. Xây dựng cơ chế kiểm tra, thanh tra xử lý các trường hợp VPPL một cách kịp thời.
Quan tâm tích cực cho việc đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, trụ sở làm việc cho các cơ quan THTT, phương tiện làm việc, công cụ cho những người THTT và các thiết chế bổ trợ tư pháp.
Tăng cường thường xuyên công việc tuyên truyền, giáo dục và phổ biến pháp luật để nâng cao văn hóa pháp lý trong tố tụng, nhất là văn hóa ứng xử pháp đình./.

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 22(254), tháng 11/2013)

TS. NGUYỄN QUANG HIỀN

TAND Quận Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh.

Xếp hạng
5/5

Chia sẻ

Share on facebook
Share on twitter
Share on linkedin
Share on pinterest
Share on tumblr

Tư vấn trực tuyến

Bài viết liên quan

Giải đáp thắc mắc

Tội huỷ hoại tài sản nhà nước

Tội hủy hoại tài sản nhà nước được quy định cụ thể trong Bộ luật Hình sự và có thể bị xử lý nghiêm theo pháp luật. Dưới đây là một số thông tin chung về tội hủy hoại tài sản: Định nghĩa: Tội hủy hoại tài sản là hành

Xem chi tiết »

Thời hạn tạm giam trong vụ án hình sự?

Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, thời hạn tạm giam bị can để điều tra không quá: 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng. 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng. 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội

Xem chi tiết »

Làm gì khi bị lừa đảo qua mạng

Luật sư tư vấn khi bị lừa đảo quan mạng, bạn cần bình tĩnh và thực hiện các bước sau: Dừng ngay việc gửi tiền hoặc thực hiện bất kỳ hành động nào khác theo yêu cầu của kẻ lừa đảo. Chặn tất cả các liên lạc từ kẻ lừa

Xem chi tiết »

ĐOÀN LUẬT SƯ HÀ NỘI

CÔNG TY LUẬT DRAGON

Giám đốc – Thạc sĩ Luật sư:  Nguyễn Minh Long

Công ty luật chuyên:

Hình sự – Thu hồi nợ – Doanh nghiệp – Đất Đai – Trọng tài thương mại – Hôn nhân và Gia đình.

  • Văn phòng luật sư quận Cầu Giấy:  Phòng 6 tầng 14 tòa nhà VIMECO đường Phạm Hùng, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
  • Văn phòng luật sư quận Long Biên: Số 24 ngõ 29 Phố Trạm, Phường Long Biên, Quận Long Biên, Hà Nội
  • Điện thoại: 1900 599 979 / 098.301.9109Email: dragonlawfirm@gmail.com

Hệ thống Website:

#luatsubaochua, #luatsutranhtung, #luatsuhinhsu, #luatsugioibaochua, #luatsubaochuahanoi, #luatsubaochuahaiphong

Điều luật tham khảo

Văn bản luật

Thủ tục liên quan đến thuê luật sư

Chi phí thuê luật sư bào chữa vụ án hình sự

Luật hình sự là quan hệ xã hội phát sinh giữa Nhà nước và người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội khi các chủ thể này thực hiện tội phạm. Theo quy định tại Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, những người có quyền nhờ luật sư bào chữa bao gồm:

  • Người bị bắt.
  • Người bị tạm giữ.
  • Bị can.
  • Bị cáo.
  • Bị hại.
  • Nguyên đơn dân sự.
  • Bị đơn dân sự.
  • Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.

Ngoài những đối tượng trên, theo quy định tại Điều 27 Luật Hình sự năm 2012, người đại diện hoặc người thân thích của người bị buộc tội cũng có quyền được nhờ luật sư bào chữa cho người bị buộc tội.

Quá trình tố tụng bắt đầu từ giai đoạn điều tra – truy tố – xét xử – thi hành án. Bất kể một cá nhân, đại diện, tổ chức nào ngay khi nhận được giấy mời, giấy triệu tập của cơ quan điều tra hoặc tại bất kỳ thời điểm nào trong quá trình tố tụng nêu trên đều có quyền và cần thiết phải nhờ sự hỗ trợ của luật sư.

Tuy nhiên, vì quá trình tố tụng kéo dài đói hỏi người bảo vệ quyền lợi cho thân chủ phải là người đồng hành cùng thân chủ trong xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự. Do đó, thời điểm tốt nhất để có thể nhờ luật sư bào chữa là ngay khi nhận được giấy triệu tập từ cơ quan điều tra. Vì, khi đó, luật sư có thể can thiệp pháp lý và bảo vệ cho thân chủ ngay từ giai đoạn đầu tiên.

Luật sư hình sự sẽ giúp ích gì cho bạn?

Luật sư hình sự tham gia vào vụ án hình sự trong suốt quá trình tố tụng từ sơ thẩm đến phúc thẩm hoặc có thể trong giai đoạn tái phẩm hoặc giám đốc thẩm với vai trò là người được nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự ủy quyền tham gia vụ án hoặc là người bảo vệ quyền và lợi ích cho thân chủ.

Tham gia vào ngay từ giai đoạn xác minh ban đầu, khi có giấy triệu tập và trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, luật sư hình sự có những nhiệm vụ sau:

  • Nghiên cứu, xác minh, thu thập chứng cứ theo quy định pháp luật để bảo vệ thân chủ. Đây là một trong những quyền và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 73 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
  • Đóng vai trò là người bảo vệ cho thân chủ tại những phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Giúp phiên tòa có cái nhìn khách quan hơn về động cơ, hoàn cảnh của thân chủ.
  • Luật sư hình sự là người am hiểu pháp luật, vận dụng những kỹ năng của một người luật sư, linh hoạt, mềm dẻo trong quá trình làm việc với cơ quan điều tra, cơ quan tiến hành tố tụng, giúp bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho thân chủ của mình.
  • Luật sư hình sự sẽ là người tư vấn đưa ra những giải pháp tốt nhất, đảm bảo đúng quy định pháp luật cho thân chủ của mình.

Vì sao bị can/bi cáo nên nhờ/thuê luật sư hình sự ngay từ ban đầu?

  • Từ khi bị triệu tập, nghi vấn phạm tội: có thể thuê luật sư ngay từ đầu để bảo vệ quyền lợi, có thể bị hình sự hóa trong quan hệ hình sự trong quá trình điều tra xét xử.
  • Giai đoạn tạm giam điều tra: Luật sư tiếp xúc trực tiếp với bị can/thân chủ hỏi cung, đối chất, đề xuất, kiến nghị tới cơ quan tiến hành tố tụng, yêu cầu họ thực hiện đúng quy định pháp luật để bảo cho thân chủ.
  • Tham gia bảo vệ (bào chữa) cho thân chủ tại những phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Giúp phiên tòa có cái nhìn khách quan hơn về động cơ, hoàn cảnh của thân chủ.
  • Luật sư hình sự là người am hiểu pháp luật, vận dụng những kỹ năng của một người luật sư, linh hoạt, mềm dẻo trong quá trình làm việc với cơ quan điều tra, cơ quan tiến hành tố tụng, tranh tụng giúp bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho thân chủ của mình.
  • Luật sư hình sự sẽ là người tư vấn đưa ra những giải pháp tốt nhất, đảm bảo đúng quy định pháp luật cho thân chủ của mình.

Đối với người bị hại thì Luật sư hình sự sẽ giúp ích những gì?

  • Luật sư thu thập chứng cứ
  • Tư vấn pháp luật hình sự cho người bị hại hiểu được hành vi của bi can/bị cáo biết được tội danh mà cơ quan điều tra khởi tố với người phạm tội đã đúng hay chưa
  • Giúp cho người bị hại soạn thảo các đơn từ kiến nghị để việc khởi tố/truy tố đối với bị can gây ra thương tích, gây ra thiệt hại cho người bị hại là “đúng người đúng tội”
  • Vấn đề về bồi thường: Luật sư tư vấn soạn thảo tính toán mức bồi thường để đưa ra yêu cầu xém xét bồi thường.

Tiêu chí để lựa chọn dịch vụ luật sư hình sự là gì?

Thông thường, mọi người có xu hướng lựa chọn luật sư thông qua quen biết vì cho rằng luật sư thông qua quen biết sẽ có độ tín nhiệm cao hơn hoặc là và có thể “nhờ vả” được. vậy đây có phải là một tiêu chí để lựa chọn luật sư?

Theo quy định tại quy tắc số 5 Quyết định số 201/QĐ-HĐLSTQ của liên đoàn luật sư Việt Nam về quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam thì một trong những quy tắc hành nghề chính là bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng, đây là một trong những quy tắc mà bất kì luật sư nào cũng thuộc nằm lòng.

Hơn nữa, hiện nay cuộc cách mạng cải cách tư pháp đã loại bỏ rất nhiều tiêu cực trong hoạt động tố tụng, quá trình xét xử, theo thông tư liên tịch số 03/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP quá trình xét xử phải được ghi âm ghi hình đảm bảo sự minh bạch rõ ràng tránh những hoạt động, hành vi tiêu cực trong xét xử.

Bất kỳ luật sư nào cũng có nghĩa vụ bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích cho thân chủ của mình, và quy trình hoạt động tố tụng cũng đã được quy định chặt chẽ hơn, các hoạt động tiêu cực cũng từ đó bị triệt tiêu dần. Do đó, yếu tố người thân người quen không phải là một trong những yếu tố, tiêu chí để lựa chọn luật sư, mà tiêu chí để lựa chọn luật sư bao gồm những tiêu chí sau:

  • Luật sư có chuyên môn trong lĩnh vực hình sự, đây là một yếu tố quan trọng của một luật sư hình sự vì phải hiểu rõ lý luận pháp luật, cập nhật thường xuyên những thay đổi của pháp luật, am hiểu cơ chế hoạt động điều tra thì mới có thể bảo vệ tốt cho thân chủ của mình.
  • Luật sư có kinh nghiệm trong hoạt động tố tụng hình sự, trong thực tiễn và tham gia tố tụng trong nhiều vụ án vì càng tham gia nhiều vụ án thì càng tích lũy được nhiều bản lĩnh, kinh nghiệm thâm niên lâu có thể giải quyết được không chỉ những vấn đề pháp luật mà vấn đề quan hệ với các cơ quan tố tụng, cơ quan điều tra.
  • Thấu hiểu hoàn cảnh, động cơ, lý do, hoàn cảnh của thân chủ ví dụ như: do hoàn cảnh khó khăn, do nền tảng gia đình không tốt, do rơi vào tình thế bắt buộc, … từ đó mới xây dựng được phương án, cung cấp dịch vụ tốt nhất cho thân chủ.
  • Chi phí dịch vụ luật sư, tùy vào từng trường hợp, vụ việc cụ thể chi phí luật sư sẽ khác nhau, có những vụ án có tính chất phức tạp, thì ngoài chi phí luật sư còn nhiều chi phí khác như chi phí giám định thương tích thương tật, giám định tự thi, chi phí dựng hiện trường, … Do đó, Tùy vào từng vụ việc cụ thể và hoàn cảnh của thân chủ để đưa ra mức phí phù hợp.

Phí dịch vụ luật sư hình sự được tính như thế nào?

Một trong những nguyên tắc hành nghề luật sư phải thông báo rõ ràng mức thù lao, chi phí cho khách hàng, tuy nhiên, vì tính chất nhạy cảm của vụ án hình sự, chi phí dịch vụ hình sự không giống như các chi phí dịch vụ luật sư khác, không có mức phí cố định, rõ ràng.

Như đã đề cập ở trên, tùy vào từng trường hợp cụ thể của vụ việc mà phí dịch vụ luật sư sẽ khác nhau. Chi phí luật sư trong vụ án hình sự rất phức tạp, tùy vào từng sự việc, luật sư đưa ra mức chi phí cụ thể, do đó, quý khách hàng cần phải gặp trực tiếp với luật sư của công ty luật để có thể trao đổi và đánh giá tính phức tạp của vụ việc mới có thể đưa ra được mức phí phù hợp

Ngoài chi phí dịch vụ luật sư, còn có những khoản phí riêng khác, không nằm trong chi phí dịch vụ luật sư như:

  • Chi phí giám định thương tật
  • Chi phí cho người làm chứng
  • Chi phí bồi thường dân sự

Có cam kết kết quả trong vụ án hình sự không?

Công ty luật Dragon của chúng tôi đảm bảo thực hiện công việc theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định và đảm bảo tuân thủ đúng 27 quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam theo quy định tại Quyết định số 201/QĐ-HĐLSTQ ngày 13/12/2019 của Hội Đồng luật sư toàn quốc.

Công ty chúng tôi luôn đặt quyền lợi khách hàng lên đầu, cam kết giữ bí mật những thông tin liên quan đến khách hàng, đem những hiểu biết, kinh nghiệm trong hoạt động tố tụng hình sự, sự tận tâm, nhiệt tình của mình đến cho khách hàng.

Trên đây là toàn bộ nội dung bài giới thiệu dịch vụ luật sư hình sự và hướng dẫn cách chọn luật sư hình sự. Quý khách hàng nếu có nhu cầu sử dụng dịch vụ luật sư hình sự của công ty chúng tôi hoặc có thắc mắc về chính sách dịch vụ luật sư của công ty vui lòng liên hệ hotline 098.301.9109 để được tư vấn và hỗ trợ kịp thời.

Luật Dragon nhận hỗ trợ “tư vấn” trực tuyến 24/24 qua các hình thức như sau:

  • Tư vấn pháp luật qua EMAIL: congtyluatdragon@gmail.com
  • Tư vấn pháp luật qua FACEBOOK: Fanpage Luật Dragon
  • CÔNG TY LUẬT DRAGON

    LUÔN ĐỒNG HÀNH CÙNG QUÝ KHÁCH!

    TRỤ SỞ CHÍNH CÔNG TY LUẬT DRAGON:

    Add: Phòng 14.6, Tòa nhà Vimeco, Lô 9E, Đường Phạm Hùng, Quận Cầu Giấy, Hà Nội.

    Tel: 1900. 599. 979

    VĂN PHÒNG ĐẠI DIỆN LUẬT SƯ TẠI QUẬN LONG BIÊN:

    Add: Số 24 ngách 29 Phố Trạm phường Long Biên, quận Long Biên, thành phố Hà Nội

    Tel : 1900. 599. 979

    VĂN PHÒNG LUẬT SƯ TẠI HẢI PHÒNG:

    Add: Số 102, Lô 14 đường Lê Hồng Phong, Phường Đằng Lâm,Quận Hải An, Hải Phòng.

    Tel : 1900. 599. 979

    VĂN PHÒNG LUẬT SƯ TẠI TP HCM:

    Tel : 1900. 599. 979

    =====================

    BAN GIÁM ĐỐC CÔNG TY LUẬT DRAGON:

    Luật Sư Nguyễn Minh Long

    Điện Thoại: 098.301.9109

    Email: dragonlawfirm@gmail.com

Quy trình giải quyết vụ án hình sự

Từ khóa: thuê luật sư vụ án hình sự,Giá thuê luật sư,Chi phí thuê luật sư vụ án hình sự,Có nên thuê luật sư,Chi phí thuê luật sư có được bồi thường,Hợp đồng thuê luật sư,Chi phí thuê luật sư bào chữa, chi phí thuê luật sư bào chữa

Luật sư bào chữa giỏi tại Hải Phòng

Xã hội càng phát triển, nghề luật sư càng có vai trò quan trọng. Hằng ngày, nhiều tranh chấp, kiện tụng phát sinh và luật sư phải đứng ra tranh đấu để bảo vệ lẽ phải, công lý.

Bảo vệ lẽ phải

Luật sư Nguyễn Minh Long ở Văn phòng luật sư Dragon (Chi nhánh Hải Phòng) đã có gần 10 năm gắn bó với nghề. Giống như nhiều đồng nghiệp khác, công việc trong ngày của anh khá bận rộn và luôn phải di chuyển. Từ việc xếp lịch gặp khách hàng, lịch làm việc tại tòa án, đi thu thập chứng cứ… đều được anh thực hiện một cách cẩn trọng. Nhiều khi các luật sư còn trở thành chuyên gia tâm lý giúp thân chủ và người nhà yên tâm, tin tưởng vào lẽ phải.

Luật sư Long cho biết: “Nhiệm vụ của chúng tôi là bảo vệ công lý và lẽ phải. Vì vậy, mỗi vụ việc đều phải được tìm hiểu một cách kỹ lưỡng, chính xác, mất nhiều thời gian, công sức. Chỉ cần một sai sót cũng có thể dẫn đến những hậu quả khó lường”.

Giữ tâm trong sáng

Luật sư Long chia sẻ, hơn 10 năm gần đây, xã hội, con người có nhiều thay đổi, phát sinh nhiều mâu thuẫn phức tạp. Các vụ án liên quan đến kinh tế, hình sự, tranh chấp đất đai, hôn nhân – gia đình xảy ra nhiều hơn, phức tạp hơn. Vì thế, công việc của giới luật sư cũng vất vả gấp nhiều lần. Tuy nhiên, anh quan niệm phải luôn giữ tâm trong sáng để mỗi vụ việc đều được xử lý chính xác, theo đúng pháp luật. Nhiều lúc, các luật sư còn trở thành chuyên gia tư vấn  miễn phí.

Năm 2012, luật sư Long nhận tư vấn thủ tục ly hôn cho một phụ nữ ngoài 50 tuổi ở Quận Hồng Bàng. Do người chồng làm thợ xây nên hay đi nhiều nơi, có quan hệ phức tạp, về nhà thường chửi mắng vợ con. Không chịu nổi tình cảnh này, người vợ quyết định ly hôn. Qua tiếp xúc và tìm hiểu câu chuyện, anh Phán nhận thấy vẫn có cơ hội cứu vãn cuộc hôn nhân này. Bằng vốn kinh nghiệm qua từng vụ án và đời sống thường ngày, anh phân tích, giảng giải để người phụ nữ kia hiểu được điều hơn, thiệt. Lúc đầu, người phụ nữ này không nghe mà cương quyết đưa chồng ra tòa. Tuy nhiên, sau nhiều lần tiếp xúc, động viên, phân giải, họ đã chữa lành được vết thương, bỏ qua những lỗi lầm để hàn gắn trở lại.

Một số người vẫn hay nghĩ luật sư là nghề có nhiều quan hệ, kiếm được nhiều tiền nhưng thực tế những khó khăn, vất vả chỉ có người trong nghề mới hiểu hết. Để có thể trở thành một luật sư phải trải qua một thời gian dài học tập và đào tạo. Theo quy định, ngoài tấm bằng cử nhân, luật sư phải qua lớp đào tạo kỹ năng hành nghề luật sư, thời gian tập sự và thi qua kỳ thi kết thúc tập sự. Thời gian này tối thiểu là 6 năm hoặc có thể kéo dài hơn. Có người theo đuổi cả chục năm mới trở thành một luật sư.

Luật sư Long cho biết: “Công việc vất vả lắm nhưng thu nhập của anh em luật sư cũng chỉ đủ sống. Nhiều khi gặp trường hợp khó khăn, người cao tuổi, gia đình chính sách, chúng tôi chỉ làm giúp chứ không nhận phí. Gặp người tốt, sau khi tư vấn hay hoàn tất vụ việc thì họ đến có lời cảm ơn. Nhưng cũng có trường hợp mình thấy vấn đề của họ khiếu nại là sai, phân tích để nhận ra lẽ phải thì họ phản ứng ra mặt, thậm chí còn có những lời nói không đúng mực. Dù vậy, chúng tôi vẫn luôn giữ vững cái tâm với nghề”.

Công việc vất vả nên không phải ai cũng gắn bó được với nghề. Vì thế, người trẻ thường ít chọn học luật và đầu tư thời gian, chất xám để trở thành luật sư. Hiện nay, Hải Phòng có hơn 100 luật sư đang hành nghề, trong đó có khoảng 30 người là người cao tuổi, đã nghỉ hưu. Chỉ có tình yêu nghề mới giúp họ gắn bó với nghề luật sư trong thời gian dài. Mặc dù khó khăn là thế nhưng các luật sư như anh Long  luôn tin rằng nghề luật sư sẽ có triển vọng trong tương lai vì góp phần bảo đảm công bằng xã hội.

Văn phòng luật sư Dragon Hải Phòng

Khi nào cần thuê luật sư bào chữa

Thuê luật sư là việc người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị buộc tội, bị can, bị cáo và người thân thích của họ là cha, mẹ, vợ, con, ông, bà… thuê luật sư bào chữa cho trường hợp của gia đình nhà mình

Vai trò của Luật sư, luật sư tham gia vụ án hình sự với vai trò là người bào chữa, khi thực hiện bào chữa cho người bị buộc tội, người bị tạm giữ, người bị tạm giam, bị can, bị cáo trong tất cả các giai đoạn từ Điều tra vụ án, khởi tố vụ án, Truy tố vụ án và xét xử vụ án, luật sư sẽ thực hiện các quyền bào chữa để bảo chữa cho các bị can, bị cáo.

Thuê luật sư bào chữa cho người bị bắt là trường hợp người bị tình nghi hay còn gọi là nghi can có thể bị bắt quả tang hoặc bị tạm giữ song bắt hoặc bị mời về làm việc tại trụ sở cơ quan điều tra song bắt, trong tường hợp này người bị bắt có quyền thuê luật sư để bào chữa cho mình. Việc luật sư tham gia bào chữa từ giai đoạn này là hết sức cần thiết vì tham gia ngay từ ban đầu sẽ bảo đảm được quyền của người bị bắt cũng như làm sáng tỏ các sự kiện khách quan của vụ án

Thuê luật sư bảo chữa cho bị can khi phạm tội Khi một ai đó có hành vi phạm tội đã bị cơ quan Cảnh sát điều tra, cơ quan Công an khởi tố vụ án và khởi tố bị can, lúc đó người bị khởi tố trở thành bị can và có quyền mời luật sư bào chữa cho mình để tham gia vào vụ án. Luật sư khi tham gia bào chữa cho bị can sẽ giúp đỡ bị can về mặt pháp luật, sử dụng các biện pháp cần thiết và hợp pháp để bảo vệ bị can. Quá trình bào chữa của luật sư cho bị can từ khi bị mời lên làm việc, khi bị khởi tố tại cơ quan Điều tra, khi bị Viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền truy tố bị can bằng Bản cáo trạng và cho đến khi Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử. nói như vậy không có nghĩa là luật sư sẽ chấm dứt tư cách bào chữa cho bị can mà tư cách của bị can được chuyển sang thành tư cách Bị cáo.

Thuê luật sư bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa: Khi một bị can hay người bị buộc tội bị Tòa án nhân dân có thẩm quyền có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì lúc đó được chuyển sang một tư cách mới là tư cách bị cáo, Luật sư người bào chữa tiếp tục bào chữa cho bị cáo trong toàn bộ quá trình xét xử vụ án ở giai đoạn sơ thẩm hoặc phúc thẩm nếu bị cáo có kháng cáo và tiếp tục mời luật sư bào chữa cho mình. Luật sư bào chữa cho bị cáo có những quyền và nghĩa vụ nhất định, tư vấn và hỗ trợ pháp lý cũng như trao đổi với bị cáo để sao cho bào chữa cho bị cáo được tốt nhất.

Thuê luật sư tham gia vụ án hình sự là trường hợp đã xác định một vụ án hình sự, vụ án có thể hình thành từ giai đoạn khởi tố vụ án, khởi tố bị can và tiến hành điều tra hoặc có thể vụ án đã được Viện kiểm sát có thẩm quyền tiến hành xem xét truy tố ra tòa án và cũng có thể vụ án đã được tòa án chuẩn bị đưa ra xét xử sơ thẩm hoặc xét xử phúc thẩm. Luật sư tham gia vào vụ án hình sự sẽ thực hiện các nhiệm vụ quyền hạn của người bào chữa để nghiên cứu hồ sơ và bào chữa cho người được bào chữa.

Thuê luật sư bảo vệ cho người bị hại trong vụ án hình sự: Trong vụ án hình sự liên quan đến thiệt hại luật sư sẽ tham gia bảo vệ quyền và lợi ích của người bị hại, tham gia và các giai đoạn tố tụng tại Cơ quan Điều tra, Công an, Viện Kiểm sát và Tòa án; sao chụp hồ sơ tài liệu, thu thập chứng cứ và đưa ra cũng như bảo vệ các yêu cầu về bồi thường thiệt hịa cho người bị hại. Trong quá trình tranh tụ tại Tòa án, Luật sư sẽ phát biểu quản điểm luận tội đối với các bị cáo đã gây ra cho bị hại; nếu vụ án cần phải kháng cáo luật sư sẽ giúp bị hại thực hiện việc kháng cáo bản án theo quy định.

Thuê luật sư bào chữa cho người chưa thành niên, người chưa thành niên khi phạm tội là người dưới 18 tuổi, theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự thì đây là những người đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (14 tuổi) nhưng chưa thành niên (dưới 18 tuổi) khi phạm tội thì bắt buộc phải có luật sư. Thông thường bố mẹ hoặc người đại diện hợp pháp hay người giám hộ sẽ thuê luật sư bào chữa. Trường hợp không thể có điều kiện thuê luật sư thì cơ quan tiến hành tố tụng sẽ yêu cầu Đoàn luật sư chỉ định luật sư bào chữa. Đây là quyền cơ bản của người dưới thành niên để có thể bào chữa cho hộ được tốt nhất.

Luật sư bào chữa để trả hồ sơ điều tra bổ sung là trường hợp luật sư tham gia bào chữa cho bị can, bị cáo trong vụ án hình sự và vào từng giai đoạn cụ thể có thể là giai đoạn truy tố tại Viện kiểm sát, Luật sư kiến nghị việc trả hồ sơ cho cơ quan Điều tra để tiến hành điều tra bổ sung hoặc sau khi Viện kiểm sát đã quyết định truy tố bằng Bản cáo trạng ra Tòa án có thẩm quyền thì Luật sư kiến nghị Thẩm phán thụ lý vụ án ra Quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung hoặc Tại phiên tòa luật sư bào chữa để Hội đồng xét xử trả hồ sơ điều tra bổ sung.

Giai đoạn mà luật sư có quyền tham gia theo quy định tại Bộ luật TTHS, Luật Luật sư và các văn bản pháp luật liên quan, cụ thể:

I. Giai đoạn tố tụng mà luật sư có thể tham gia

Theo quy định tại khoản 2 Điều 72 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 (BLTTHS) thì người bào chữa có thể là:

“a) Luật sư;

b) Người đại diện của người bị buộc tội;

c) Bào chữa viên nhân dân;

d) Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý.”

Bên cạnh đó, Điều 74 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định về thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng như sau:

“Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can.

Trường hợp bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ.

Trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.”

Căn cứ những quy định trên, luật sư có thể tham gia tố tụng để bào chữa cho em bạn khi em bạn hoặc gia đình bạn có giấy mời luật sư sau đó Luật sư sẽ tiến hành những thủ tục cần thiết để được cấp Giấy chứng nhận bào chữa theo quy định của BLTTHS và những văn bản có liên quan.

II. Quyền hạn của Luật sư (người bào chữa)

Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa được quy định cụ thể tại Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 như sau:

“1. Người bào chữa có quyền:

a) Gặp, hỏi người bị buộc tội;

b) Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can;

c) Có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này;

d) Được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này;

đ) Xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình, quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;

e) Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế;

g) Đề nghị tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này; đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

h) Thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

i) Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;

k) Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản;

l) Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa từ khi kết thúc điều tra;

m) Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa;

n) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

o) Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất theo quy định của Bộ luật này.

Bạn có thể tham khảo thêm nội dung tư vấn áp dụng văn bản pháp luật theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003:

I. Giai đoạn tố tụng mà luật sư có thể tham gia

Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) thì người bào chữa có thể là:

1.  Luật sư;

2.  Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;

3.  Bào chữa viên nhân dân.

Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 58 BLTTHS có quy định: Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can, Trong trường hợp bắt người theo quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.

Căn cứ những quy định trên, luật sư có thể tham gia tố tụng để bào chữa cho em bạn khi em bạn hoặc gia đình bạn có giấy mời luật sư sau đó Luật sư sẽ tiến hành những thủ tục cần thiết để được cấp Giấy chứng nhận bào chữa theo quy định của BLTTHS và những văn bản có liên quan.

II. Quyền hạn của Luật sư (người bào chữa)

Theo quy định tại khoản 2 Điều 58 BLTTHS thì Luật sư (người bào chữa) có quyền:

1.  Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;

2.  Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can;

3.  Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này;

4.  Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác;

5.  Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

6.  Gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam;

7.  Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật;

8.  Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà;

9.  Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

10. Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Thuê luật sư bào chữa hình sự ở Hà Nội

Gọi cho một luật sư chuyên hình sự tại Hà Nội : 1900. 599. 979

Bạn đã bị buộc tội về một tội ác mà bạn đã không phạm phải và tìm kiếm công lý nhanh chóng và không bị tổn thương trong khi duy trì danh dự và nhân phẩm của bạn? Hoặc, có lẽ bạn đã là nạn nhân của một tội ác và tìm kiếm sự trừng phạt hợp pháp đối với những người đã làm hại bạn hoặc gia đình bạn. Bạn thậm chí có thể tự mình phạm tội và mong muốn giải quyết tốt nhất có thể. Bất kể nguyên nhân hay động cơ, Văn phòng Luật sư Dragon sẽ tạo điều kiện cho công lý nhanh chóng và phù hợp cho các khách hàng tại Hà Nội và Hải Phòng của chúng tôi để họ nhận được phán quyết tốt nhất có thể.

Đó là, nếu bạn đã bị nhà nước buộc tội theo bộ luật hình sự, bắt buộc phải xuất hiện trước cơ quan quản lý hoặc muốn kháng cáo quyết định, Văn phòng Luật sư Dragon sẽ luôn cung cấp cho bạn sự hài lòng hoàn toàn. Hơn nữa, chúng tôi tính phí trên cơ sở lãi suất cố định để bạn nhận thức đầy đủ về các khoản chi tiêu trước khi chúng tôi thực hiện trường hợp của bạn. Bạn sẽ không bao giờ phải lo lắng về các cáo buộc ẩn hoặc những bất ngờ khó chịu khác trước và sau khi phán quyết được đưa ra.

Hơn nữa, Văn phòng Luật sư Dragon sẽ luôn bảo vệ bạn một cách trung thực và đạo đức. Chúng tôi sẽ sử dụng mọi phương tiện theo ý của chúng tôi để đảm bảo rằng công lý được đáp ứng và bạn sẽ nhận được phán quyết tốt nhất có thể, đưa ra bằng chứng. Văn phòng luật sư Dragon cũng sẽ tham khảo đầy đủ với bạn về các tùy chọn có sẵn và đề xuất lựa chọn tốt nhất cho nhu cầu duy nhất của bạn. Đó là, chúng tôi luôn đặt lợi ích tốt nhất của bạn lên hàng đầu và sẽ thực hiện các bước chủ động để vượt ra ngoài sự đại diện đơn thuần.

Ví dụ, các luật sư hình sự tại Hà Nội của chúng tôi được yêu cầu đăng ký vào các chương trình sáng kiến ​​giáo dục thường xuyên để họ cập nhật kiến thức hiểu biết hệ thống pháp lý – và tất cả các sắc thái của nó – một cách triệt để. Chúng tôi cũng đầu tư vào nghiên cứu và phát triển công nghệ để đảm bảo rằng kiến ​​thức về các đạo luật pháp lý của chúng tôi luôn cập nhật và chính xác.

Do đó, nếu bạn đã bị buộc tội hoặc là nạn nhân của tội phạm, bạn sẽ cần một luật sư pháp lý tốt nhất để đưa ra phán quyết mà bạn mong muốn. Các công tố viên và luật sư hình sự tận tâm, có kinh nghiệm và có trình độ học vấn cao của chúng tôi có một hồ sơ theo dõi thành công đã được chứng minh và có khả năng sẽ tạo điều kiện cho bản án mà bạn và gia đình bạn mong muốn. Hơn nữa, chúng tôi đã xử lý các vụ án hình sự từ rửa tiền đến giết người hàng loạt. Do đó, không có vụ án hình sự nào ở Hà Nội quá tầm thường hay khó khăn đối với các luật sư hình sự tại Văn phòng Luật sư Dragon.

Hãy cho chúng tôi về trường hợp hay vụ việc của bạn

Đại diện tư vấn trực tiếp của chúng tôi luôn sẵn sàng 24/7 để hỗ trợ bạn và có thể lên lịch tư vấn với chuyên gia luật của chúng tôi.

Thuê luật sư bào chữa cho người bị bắt

Thuê luật sư bào chữa cho người bị bắt là trường hợp người bị tình nghi hay còn gọi là nghi can có thể bị bắt quả tang hoặc bị tạm giữ song bắt hoặc bị mời về làm việc tại trụ sở cơ quan điều tra song bắt, trong tường hợp này người bị bắt có quyền thuê luật sư để bào chữa cho mình.

Người bị bắt tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt tạm giữa người bị bắt tạm giữ được nghe, nhận lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, quyết định phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp;

Người bị bắt tạm giữ trong trường hợp khẩn cấp có các quyền:

– Được biết lý do mình bị giữ;

– Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự;

– Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;

– Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

– Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tố tụng kiểm tra, đánh giá và các quyền khác

Người bị bắt tạm giữ có được quyền nhờ luật sư. Theo quy định thì người bị bắt tạm giữ có quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật sư bảo chữa cho mình. Nếu nhờ luật sư bào chữa họ có quyền yêu cầu cơ quan đang thụ lý vụ việc liên hệ luật sư để họ có thể nhờ luật sư bào chữa cho mình, ngoài ra họ cũng có các quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc giữ người, bắt người.

Người bị bắt theo quy định tại Điều 58 Bộ luật Tố tụng hình sự thì là bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc bắt theo quyết định truy nã. Khi bị bắt người bị bắt có các nghĩa vụ chấp hành lệnh bắt người và yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền bắt người theo quy định của pháp luật.

Người bị bắt khi bị bắt có quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật sư bào chữa và một số quyền cơ bản sau:

Được biết lý do mình bị giữ, bị bắt;
Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;
Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tố tụng kiểm tra, đánh giá;
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc giữ người, bắt người. Và một số quyền khác.
Khi bị tạm giữ có được thuê luật sư? Người bị tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ. Ngoài các quyền cơ bản được quy định tại Khoản 2 Điều 59 Bộ luật Tố tụng hình sự thì người bị tạm giữ có quyền tự bào chữa hoặc thuê luật sư bào chữa.

Thuê luật sư bào chữa tại Công ty luật Dragon. Vui lòng liên hệ: 1900.599.979

 

Khi chưa khởi tố mà nhận được giấy triệu tập của công an có nên thuê luật sư bào chữa

Tôi có giấy triệu tập của công an thành phố, liên quan đến tội trộm cắp xảy ra do bạn tôi làm đơn, mặc dù tôi khẳng định tôi không liên quan đến sự việc của bạn tôi mất trộm? mất bao nhiêu tiền? mất ở đâu ? như thế nào? bạn ấy làm đơn vu khống cho tôi.. Tôi bị công an gọi điện mời tôi, tôi vì không hiểu pháp luật nên đã ký hợp đồng thuê luật sư bào chữa bảo vệ cho tôi, đến lịch hẹn làm việc theo giấy triệu tập? Luật sư của tôi đi cùng tôi đến xuất trình tại công an điều tra như giấy giới thiệu, đơn mời luật sư bào chữa và thẻ luật sư, nhưng bên công an đã từ chối không cho luật sư bào chữa cho tôi tham gia với lý do, hiện nay chưa khởi tố vụ án, chưa khởi tố tôi, công an chỉ mời lên làm rõ sự việc, công an đề nghị tôi và luật sư bổ sung thêm hợp đồng dịch vụ pháp lý? Lúc đấy tôi thấy luật sư bảo tôi cứ làm việc với công an và luật sư bỏ ra về. Tôi rất hoang mang và đã bị sốc nên từ chối không làm việc với công an và xin hẹn buổi khác, tôi có nói với công an là phải có luật sư thì tôi mới làm việc sau đó tôi đi về. Luật sư của tôi không giải thích cho tôi biết lý do và ý kiến của cơ quan điều tra đúng hay sai? Nay tôi nhờ luật sư tư vấn ý kiến của công an như vậy có đúng không? luật sư bảo vệ cho tôi làm như vậy có đúng không? Tôi rất hoang mang khi tìm chọn một công ty luật có uy tín mà lại có một luật sư hành xử như vậy? Rất mong Công ty luật Dragon tư vấn gấp cho tôi.

Phúc đáp yêu cầu tư vấn pháp luật của anh/chị, đề nghị cho ý kiến về một số nội dung pháp lý liên quan đến việc: người bị kiến nghị khởi tố/bị tố giác có được mời Luật sư không, Luật sư Công ty luật Dragon có ý kiến như sau:

*) Đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác:

Theo như trình bày thì anh/chị đang bị tố giác về hành vi trộm cắp tài sản. Khoản 1 Điều 83 Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác là người được người bị tố giác nhờ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Luật sư là một trong những người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác (điểm a khoản 2 Điều 83 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015). Như vậy, anh/chị có quyền mời Luật sư để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình ngay từ khi bị tố giác (từ khi chưa có quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can).

Khoản 1 Điều 27 Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi bổ sung năm 2012) quy định: “Hoạt động tham gia tố tụng của luật sư phải tuân theo quy định của pháp luật về tố tụng và Luật này”.

Bộ Luật Tố tụng hình sự không quy định rõ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác phải xuất trình những giấy tờ gì khi làm việc với Cơ quan Cảnh sát điều tra. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm làm việc thực tế của Luật sư và quy định tại điểm a khoản 2 Điều 78 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì những giấy tờ Luật sư cần xuất trình khi làm việc với Cơ quan CSĐT là: Giấy giới thiệu của công ty luật cử luật sư đến cơ quan điều tra làm việc, Thẻ luật sư kèm theo bản sao có chứng thực và giấy yêu cầu đơn mời luật sư của người bị tố giác ( anh chị cũng như Luật sư không phải xuất trình Hợp đồng dịch vụ pháp lý).

Như vậy, việc công an từ chối không cho luật sư tham gia với lý do: hiện nay chưa khởi tố vụ án, chưa khởi tố bị can, công an chỉ mời lên làm rõ sự việc và đề nghị anh và luật sư bổ sung thêm hợp đồng dịch vụ pháp lý là vi phạm tố tụng.

*) Quyền của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác:

Khoản 3 Điều 83 Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 quy định: Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác có quyền:

  1. a) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
  2. b) Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
  3. c) Có mặt khi lấy lời khai người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố và nếu được Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên đồng ý thì được hỏi người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố. Sau mỗi lần lấy lời khai của người có thẩm quyền kết thúc thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có quyền hỏi người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố;
  4. d) Có mặt khi đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố;

đ) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Luật sư bào chữa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của anh/chị không đưa ra ý kiến nào và bỏ về khi bị công an từ chối là không thực hiện quyền của mình theo quy định trên. Không bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp tốt nhất cho khách hàng. Việc anh/chị từ chối không làm việc với công an, xin hẹn buổi khác và nói với công an là phải có luật sư bào chữa cho anh/chị thì anh/ chị mới làm việc với cơ quan điều tra là đúng với quy định của pháp luật.

Trên đây là quan điểm ý kiến của Thạc sĩ Luật sư Nguyễn Minh Long Giám đốc Công ty Luật Dragon – Đoàn Luật sư TP. Hà Nội về nội dung vụ viêcj trên.

Để biết thêm thông tin chi tiết bạn có thể liên hệ với Luật sư Hà Nội và Luật sư Hải Phòng theo địa chỉ dưới đây.

  1. Trụ sở chính Công ty Luật Dragon tại quận Cầu Giấy:  Phòng 6, Tầng 14, Tòa nhà VIMECO, Đường Phạm Hùng, Phường Trung Hòa, Quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội.
  2. VPĐD luật sư Công ty luật Dragon tại quận Long Biên: Số 24 Ngõ 29 Phố Trạm, phường Long Biên, quận Long Biên, Tp Hà Nội.
  3. Chi nhánh Công ty Luật Dragon tại Hải Phòng: Phòng 6 tầng 4 Tòa Nhà Khánh Hội, đường Lê Hồng Phong, quận Hồng Bàng, Tp Hải Phòng.

Công ty Luật Dragon cung cấp biểu phí và thù lao luật sư bào chữa tham khảo tại đây

Trân trọng!

CÔNG TY LUẬT DRAGON

Luật sư chuyên bào chữa vụ án hình sự

ĐIỀU LUẬT

ÁN LỆ