1900599979

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ GIANG

BẢN ÁN 23/2018/HSST NGÀY 09/05/2018 VỀ TỘI MUA BÁN NGƯỜI VÀ MUA BÁN TRẺ EM

Ngày 09/5/2018, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Hà Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 02/2018/ TLST-HS ngày 24/01/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2018/QĐXXST-HS ngày 30/3/2018 đối với bị cáo:

LÙ THỊ S sinh ngày 23 tháng 9 năm 1993 tại huyện XM, tỉnh Hà Giang. Nơi cư trú: Thôn Thèn V, xã Pà Vầy S, huyện XM, tỉnh Hà Giang; trình độ học vấn: Lớp 6/12; nghề nghiệp: Làm nương, ruộng; Dân tộc: Nùng; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lù Văn Th sinh năm 1964 và bà Ly Thị V sinh năm 1971; chồng Hầu Seo S sinh năm 1988, có 2 con, lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị bắt giam từ ngày 16/6/2017, hiện đang bị tạm giam tại trại giam thuộc Công an tỉnh Hà Giang. Có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Vương Lỷ, Luật sư Văn phòng Luật sư Minh Giang thuộc đoàn Luật sư tỉnh Hà Giang, có mặt.

Bị hại:

1/ Lù Thị Ph sinh ngày 08/3/1996. N¬i cư trú: thôn Nấm L, xã Nấm D, huyện XM, tỉnh Hà Giang, có mặt.

2/ Sùng Thị S (Sùng Thị Ch) sinh năm 1994; Nơi cư trú: thôn Nấm L, xã Nấm D, huyện XM, tỉnh Hà Giang. Có mặt.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1/ Ông Lù Sào D sinh năm 1957; Nơi cư trú: thôn Nấm L, xã Nấm D, huyện XM, tỉnh Hà Giang, có mặt.

2/ Ông Sùng Văn Kinh sinh năm 1972; Nơi cư trú: thôn Nấm L, xã Nấm D, huyện XM, tỉnh Hà Giang, có mặt.

3/ Ông Hầu Seo Sà sinh năm 1988. Nơi cư trú: thôn Thèn V, xã Pà Vầy S, huyện XM, tỉnh Hà Giang, có mặt.

Người làm chứng: Lù Thị V, Lù Thị T, Hò Văn Ngh. vắng mặt;  Cháng Thị Chỉnh có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng đầu tháng 8/2011 Lù Thị S, sinh năm: 1993, trú tại thôn Thèn V, xã Pà Vầy S, huyện Xín M, Hà Giang, đi chợ cửa khẩu mốc 5, thuộc xã Xín M, huyện Xín M, Hà Giang, có gặp vợ chồng bà Cứ Thị D và ông Sú S, trú tại Thào Chả Ván– Tu Lung –Mã Quan – Trung Quốc (bà Dợ là dì ruột của chồng Seo), qua nói chuyện, bà D có bàn bạc với Se là về nhà xem có người phụ nữ nào muốn sang Trung Quốc lấy chồng thì đưa sang cho bà D, mỗi người phụ nữ bà D sẽ trả cho S 1000 NDT (Một nghìn nhân dân tệ tiền Trung Quốc), S đồng ý và nói với bà D là có hai người phụ nữ đang có ý định bỏ nhà đi Sơn La làm thuê, bà D nói với S là về lừa hai người phụ nữ đó đi Sơn La qua đường Trung Quốc nhanh và gần hơn rồi đưa sang cho bà D, S đồng ý. Sau khi về nhà khoảng 2 đến 3 ngày sau, Seo đến thôn Nấm L, xã Nấm D, huyện Xín M để làm ruộng thì gặp Lù Thị Ph, sinh ngày 08 tháng 3 năm 1996 và Sùng Thị S (tức Ch), sinh năm 1994, S nói với Ph và S là sắp tới sẽ đi Sơn La chơi và hỏi Ph và S có muốn đi cùng không, Ph và S đồng ý đi nhưng do chưa có tiền nên chưa đi được và hẹn S khi nào có đủ tiền sẽ gọi điện cho S.

Khoảng 2 đến 3 ngày sau, Lù Thị Ph gọi điện thoại cho S hỏi hôm nào đi Sơn La được, S hẹn đến thứ 6 ngày 12/8/2011 thì đi, và hẹn gặp nhau ở ngã ba đường quốc lộ rẽ vào xã Chế L, huyện Xín M. Hôm sau S tiếp tục gọi điện cho Ph và hẹn gặp ở đầu cầu Cốc P, đầu đường rẽ đi Pà Vầy S, Phui có nói với S là ngày thường thì không đi được và hẹn S là đến thứ 7 ngày 13/8/2011 là ngày chợ xã Nấm D sẽ đi sớm, quá trình nói chuyện điện thoại với S, Phui có mở loa ngoài cho Sùng Thị S và Cháng Thị Ch, sinh năm: 1994 (cùng xã Nấm D, Xín M, Hà Giang) cùng nghe.

Đến sáng 13/8/2011 Lù Thị Ph đi chợ xã Nấm D, trên đường đi có gặp Sùng Thị S và cùng nhau đi thẳng ra đầu cầu Cốc P đợi S; đến khoảng 11 giờ cùng ngày S bế con, mang theo túi quần áo và 01 điện thoại bàn (loại điện thoại không dây) ra đến thị trấn Cốc P gặp S và Ph rồi cùng nhau đi theo đường tắt đi xã Thèn Ph, Xín M, Hà Giang. Quá trình đi S chủ động gọi điện thoại cho Cư Thị D hỏi D đón như thế nào, đón ở đâu, D nói với S là cứ đi đến ngã ba UBND xã Thèn Ph  thì điện cho D để D gọi xe ôm đến đón.

Khoảng 13 giờ cùng ngày thì S cùng Ph và S đến ngã ba UBND xã Th Phàng và đợi khoảng 20 phút thì có 02 xe máy (loại xe win) do hai người đàn ông (không rõ tên, tuổi, địa chỉ) điều khiển xe Mô tô đến đón, S cùng con ngồi lên 01 xe, còn S và Ph lên 01 xe đi thẳng đến chợ cửa khẩu Mốc 5, xã Xín M, huyện Xín M và đi đến điểm hẹn tại một quán sửa máy nổ ở chợ, một lúc sau D đến đón S, Ph và S đi chơi chợ Mốc 5 và đi theo đường mòn tiểu ngạch qua biên giới Việt Nam đến nhà D, trú tại Thào Chả V – Tu L – Mã Quan – Trung Quốc (cách cửa khẩu M 5 xã Xín M, huyện Xín M, tỉnh Hà Giang khoảng 10 Km).

Ngày 15/8/2011 Hầu Seo S (là chồng Seo) gọi điện thoại cho bà D hỏi S có đến đó không, vì khi S đã mang theo quần áo và con gái đi, không nói cho ông S biết là đi đâu, bà D trả lời S đang ở nhà bà D, S đã yêu cầu bà D bảo S về nhà nếu không sẽ đến bắt S về, bà D đã nói cho S biết và bảo S về nhà, sáng 16/8/2011 bà D đã thuê xe ôm đưa S về nhà trước, khi về D có đưa cho Seo 50.000 đồng (năm mươi nghìn đồng) để chi tiêu trên đường về nhà. Sau đó bà D đã đưa Ph và S vào sâu trong nội địa Trung Quốc rồi nghỉ trọ tại một nhà nghỉ không rõ địa chỉ.

Sáng ngày 17/8/2011 bà Cứ Thị D đã thuê xe ô tô đưa Ph và S tiếp tục đi sâu vào trong nội địa Trung Quốc, khi xe ô tô đến cây xăng thuộc Châu Văn Sơn, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, thì dừng bơm xăng, trong lúc bơm xăng thì gặp xe ô tô chở anh Thào Văn Ng cùng với một số người ở xã Chế L, Xín M, tỉnh Hà Giang đi làm thuê bên Trung Quốc cũng dừng xe để bơm xăng, lúc này anh Thào Văn Ng nhìn thấy Lù Thị Ph và Sùng Thị S đang ngồi trên xe ô tô cùng bà Cứ Thị D đưa đi đâu không rõ, do nghi ngờ Ph và S bị lừa đưa đi bán nên anh Ng có gọi Ph và S lại nói chuyện và biết Ph và S bị lừa đem bán, anh Nguyễn bảo Ph và S chuyển sang đi cùng xe ô tô chở anh Ng và mọi người đi làm thuê, Ph và S đồng ý chuyển sang xe ô tô chở đoàn đi làm thuê thì bà D có kéo Ph và S xuống xe nhưng không được, khi xe ô tô chở đoàn đi làm thuê chuyển bánh, thì xe ô tô của bà D có đuổi theo một đoạn, nhưng do thấy công nhân trên xe đông, nên xe ô tô chở bà D không đuổi theo nữa.

Đến ngày 25/8/2011 anh Thào Văn Ng và anh Hò Văn Ng, cư trú tại thôn Cốc Đ, xã Chế L huyện Xín M, tỉnh Hà Giang, đã đưa Ph và S về cửa khẩu M 5, xã Xín M, huyện Xín M, tỉnh Hà Giang và điện cho người nhà của Ph, S đến đón, đồng thời gia đình đã đưa Ph và S đến cơ quan chức năng trình báo và đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tính đến ngày 13/8/2011 bị cáo Lù Thị S đưa các bị hại sang Trung quốc bán, bị hại Lù Thị Phmới được 15 tuổi 5 tháng 05 ngày; Sùng Thị S được 16 tuổi 11 tháng 20 ngày.

Quá trình điều tra, do bị cáo Lù Thị S đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi nên cơ quan Công an áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú đối với Seo, khoảng giữa tháng 9/2011 bị cáo Lù Thị S đã không chấp hành Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú, tự ý trốn khỏi địa phương. Đến ngày 16/6/2017 bị cáo Lù Thị S đã bị bắt theo quyết định truy nã số 12/PC45 ngày 24/7/2012 của cơ quan CSĐT Công an tỉnh Hà Giang.

Cáo trạng số 02 /KSĐT ngày 23/01/2018, Viện kiểm sát nhân dân tỉnhHà Giang đã truy tố bị cáo Lù Thị S về các tội:

– Mua bán người, theo điểm đ khoản 2 Điều 119 Bộ luật Hình sự 1999

– Mua bán trẻ em, theo điểm e khoản 2 Điều 120 Bộ luật hình sự 1999.

Tại phiên tòa, sau khi phân tích đánh giá các chứng cứ, Kiểm sát viên đại diện Viên kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang đề nghị Hội đồng xét xử:

– Tuyên bố: Bị cáo Lù Thị S phạm tội Mua bán người và tội Mua bán trẻ em

– Về hình phạt: Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 119; điểm e khoản 2 Điều 120, điểm b,p khoản 1 và khoản 2 Điều 46, Điều 50; Điều 69, Điều 74 Bộ luật hình sự 1999; Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội, vận dụng khoản 3 Điều 7; điểm d khoản 2 Điều 150 và điểm đ khoản 2 Điều 151 Bộ luật hình sự 2015. Xử phạt bị cáo Lù Thị S từ 8 (tám) đến 9 (chín) năm tù về tội Mua bán trẻ em; từ 3 đến 4 năm tù về tội Mua bán người. Tổng hợp hình phạt chung của hai tội buộc bị cáo phải chấp hành từ 11(Mười một) đến 13 (Mười ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 16/6/2017.

– Về dân sự: Áp dụng Điều 42 Bộ luật Hình sự, Điều 584;585 và Điều 592 Bộ luật dân sự buộc bị cáo Lù Thị S bồi thường tiền công đi tìm cho các gia đình bị hại và bồi thường danh dự nhân phẩm cho các bị hại, theo số tiền các gia đình bị hại và bị hại đã yêu cầu.

Trong quá trình Điều tra Hầu Seo S là chồng của bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho mỗi người bị hại 2.000.000đ, đề nghị Hội đồng xét xử khấu trừ cho bị cáo.

– Về án phí, áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, buộc bị cáo Lù Thị S phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự có giá ngạch theo quy định.

Người bào chữa cho bị cáo trình bày:

Về tội danh: Nhất trí với ý kiến của đại diện Viện kiểm sát đã truy tố bị cáo về tội Mua bán người và tội Mua bán trẻ em theo điểm đ khoản 2 Điều 119; điểm e khoản 2 Điều 120 Bộ luật hình sự 1999; vận dụng điểm d khoản 2 Điều 150 và điểm đ khoản 2 Điều 151 Bộ luật hình sự 2015 để xét xử theo hướng có lợi cho bị cáo

Về hình phạt: Bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng sâu, vùng xa nhận thức pháp luật còn hạn chế, khi phạm tội bị cáo mới được 17 tuổi 10 tháng20 ngày là người chưa thành niên do bị rủ rê lôi kéo phạm tội, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thật thà khai báo, ăn năn hối cải, gia đình bị cáo đặc biệt khó khăn, con của bị cáo còn nhỏ, các bị hại đã trở về với gia đình ngay nên hậu quả xảy ra không lớn, chồng của bị cáo là Hầu Seo S đã tự nguyện bồi thường cho mỗi người bị hại là 2.000.000đ. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng điểm b,p khoản 1 và khoản 2 Điều 46, Điều 47, Điều 69, Điều 74 Bộ luật hình sự 1999 để xử bị cáo mức hình phạt thấp nhất để bị cáo sớm được trở về tiếp tục lao động sản xuất khắc phục khó khăn cho gia đình, chăm sóc, nuôi dạy các con trở thành người có ích cho gia đình và giảm bớt gánh nặng cho xã hội.

Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ vào khả năng kinh tế thì gia đình bị cáo đặc biệt khó khăn, bị cáo không có công ăn việc làm ổn định các con của bị cáo còn nhỏ, hơn nữa người bị hại cũng có lỗi vì muốn bỏ nhà đi để lấy chồng, các bị hại đã trở về với gia đình nên hành vi phạm tội của bị cáo gây thiệt hại không lớn. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét về tiền bồi thường danh dự nhân phẩm cho các bị hại và tiền công đi tìm người bị hại theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Lù Thị S trình bày:  bị cáo bị rủ rê lôi kéo nên đã nhất thời phạm tội, vì khi phạm tội tuổi đời của bị cáo còn trẻ nhận thức pháp luật còn hạn chế, gia đình bị cáo đặc biệt khó khăn nên bị cáo không ý thức được hành vi trái pháp luật của mình, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và trách nhiệm bồi thường dân sự cho người bị hại như Luật sư đã bào chữa cho bị cáo.

Bị hại Lù Thị Ph trình bày: Vì tin tưởng bị cáo Seo có quan hệ anh em trong họ nên đã cùng Seo đi đến nhà chồng của Seo ở tỉnh Sơn La chơi một thời gian để không phải lấy chồng do bố mẹ ép buộc, lợi dụng hoàn cảnh của tôi, S đã lừa đưa tôi và S sang Trung Quốc cho bà D để bà D mang chúng tôi đi bán như một thứ hàng hóa để lấy tiền, việc tôi được giải cứu trở về với gia đình là ngoài ý muốn của S. Vì vậy, Đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt bị cáo mức án theo quy định của pháp luật.

Về dân sự đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo Lù Thị S phải bồi thường cho tôi tiền danh dự, nhân phẩm bị xâm hại theo qui định của pháp luật.

Ông Lù Sào D trình bày: Khi biết con gái là Lù Thị Ph bị lừa đưa đi Trung Quốc, gia đình tôi đã tổ chức thuê người đi tìm Phui, tổng chi phí là 25.000.000đ, đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải bồi thường cho gia đình tôi.

Ông Hầu Seo S trình bày: Khi phạm tội bị cáo S tuổi đời còn trẻ nhận thức pháp luật còn hạn chế, gia đình tôi hiện đang rất khó khăn các con còn nhỏ, tôi đã tự nguyện thay vợ để bồi thường cho mỗi người bị hại 2.000.000đ, hiện tại tôi không có công ăn việc làm, không có ai thay vợ tôi chăm sóc, nuôi các con, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để vợ tôi sớm trở về cùng tôi lao động sản xuất khắc phục khó khăn cho gia đình và nuôi dạy các con trưởng thành.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bào chữa đều thực hiện đúng trình tự, thủ tục và đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật và không có khiếu nại tố cáo nên đều hợp pháp.

[2]. Người làm chứng, bị hại và có quyền lợi nghĩa vụ có người liên quan vắng mặt tại phiên tòa. Hội đồng xét xử thảo luận xét thấy bị hại S và những người có quyền lợi nghĩa vụ có liên quan, người làm chứng đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai Căn cứ vào Điều 292; 293 của BLTTHS quyết định tiến hành xét xử vắng mặt.

[3]. Tại phiên tòa bị cáo Lù Thị S khai nhận hành vi phạm tội như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố bị cáo. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi liên quan, người làm chứng; phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa như: Biên bản đối chất giữa bị cáo S và người bị hại Lù Thị Ph, Sùng Thị S, tài liệu chứng minh độ tuổi của bị cáo, các bị hại, đã có đủ căn cứ kết luận:

Khoảng đầu tháng 8/2011 bị cáo Lù Thị S đi chợ cửa khẩu m 5, xã Xín M, huyện Xín M, Hà Giang, có gặp vợ chồng Sú S và Cứ Thị D, trú tại Thào Chả Ván – Tu Lung – Mã Quan – Trung Quốc (bà D là dì ruột của chồng bị cáo S) khi gặp nhau bà D và S có bàn bạc về việc lừa phụ nữ Việt Nam đưa sang Trung Quốc cho bà D đem bán, mỗi người phụ nữ bà D sẽ trả cho S 1000 NDT, S đồng ý.  S đã chủ động gặp Lù Thị Ph, SN 1996 và Sùng Thị S, SN 1994, cùng trú tại thôn Nấm L, xã Nấm D, huyện xín M, rủ đi chơi tỉnh Sơn La và lừa là đi qua đường Trung Quốc gần và dễ đi hơn nên Ph và Săm đồng ý.

Sáng ngày 13/8/2011 Lù Thị S đã đưa Lù Thị Ph và Sùng Thị S đi qua đường tiểu ngạch thuộc chợ cửa khẩu M 5, xã Xín M, huyện Xín M, tỉnh Hà Giang, sang Trung Quốc cho bà D, sau đó bà D đưa Ph và S vào sâu trong nội địa Trung Quốc để bán, thì được anh Thào Văn Ng và một số người ở Chế L, Xín M, Hà Giang đang làm thuê ở Trung Quốc giải cứu đưa về Việt Nam.

Bị cáo Lù Thị S là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức rõ hành vi đưa người sang Trung Quốc bán là vi phạm pháp luật nhưng vì mục đích lợi nhuận muốn có tiền tiêu sài, bị cáo đã cố ý lừa dối Lù Thị Ph, sinh năm 1996 và Sùng Thị S, sinh năm 1994 để đưa sang Trung Quốc cho bà D bán lấy tiền, Trong quá trình bà D đưa các bị hại đi bán thì được giải cứu trở về Việt Nam là ngoài ý muốn của bị cáo. Thời điểm bị cáo thực hiện hành vi phạm tội (ngày 13/8/2011) bị hại Lù Thị Ph được 15 tuổi 5 tháng 5 ngày; bị hại Sùng Thị S được 16 tuổi 11 tháng 20 ngày. Do vậy, hành vi của bị cáo có có đủ yếu tố cấu thành tội Mua bán người và tội Mua bán trẻ em, theo điểm đ khoản 2 Điều 119, điểm e khoản 2 Điều 120 Bộ luật hình sự 1999. Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang truy tố bị cáo về hành vi phạm tội nêu trên là có căn cứ đúng người, đúng tội.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền tự do thân thể, danh dự, nhân phẩm của người bị hại và quyền quản lý, chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em đối với bị hại Lù Thị Ph, gây mất trật tự trị an tại địa phương, do đó cần xử buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình, có như vậy mới có tác dụng cải tạo giáo dục bị cáo, đồng thời góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em đang diễn ra rất phức tạp trong giai đoạn hiện nay.

Tuy nhiên khung hình phạt về tội Mua bán người, Mua bán trẻ em quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 119 và điểm e khoản 2 Điều 120 Bộ luật hình sự năm 1999 có mức hình phạt cao hơn so với khung hình phạt về tội Mua bán người và tội mua bán người dưới 16 tuổi, quy định tại điểm d khoản 2 Điều 150 và điểm đ khoản 2 Điều 151 Bộ luật hình sự  năm 2015, nên khi xem xét, đánh giá tính chất mức độ của hành vi phạm tội của bị cáo Lù Thị S, để đảm bảo nguyên tắc có lợi cho bị cáo. Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị Quyết số: 41/2017/QH14 của Quốc Hội; khoản 3, Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015, vận dụng tội mua bán người, mua bán người dưới 16 tuổi, quy định tại điểm d khoản 2 Điều 150 và điểm đ khoản 2 Điều 151 Bộ luật hình sự  năm 2015 để quyết định hình phạt đối với bị cáo.

Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy lời bào chữa cho bị cáo của luật sư tại phiên tòa là có căn cứ. Vì bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng sâu, vùng xa nhận thức pháp luật còn hạn chế, khi phạm tội bị cáo mới được 17 tuổi 10 tháng 20 ngày là người chưa thành niên do bị rủ rê lôi kéo phạm tội, thời điểm phạm tội bị cáo đang nuôi con nhỏ nên được cơ quan Điều tra áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú nhưng vì điều kiện kinh tế khó khăn và sợ không có người chăm sóc con nhỏ nên bị cáo đã bỏ trốn sang Trung Quốc làm thuê kiếm tiền để trang trải cuộc sống gia đình, sau một thời gian trở về nhà thì bị bắt lại, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thật thà khai báo, ăn năn hối cải, gia đình bị cáo đặc biệt khó khăn, con của bị cáo còn nhỏ, các bị hại đã trở về với gia đình ngay nên hậu quả xảy ra không lớn, chồng của bị cáo là Hầu Seo S đã tự nguyện bồi thường cho mỗi người bị hại là 2.000.000đ. Hơn nữa theo Điều 74 BLHS 1999 và Điều 91 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giúp họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm b,p khoản 1 và khoản 2 Điều 46, Điều 69, Điều 74 Bộ luật hình sự 1999 để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo được hưởng sự khoan hồng của pháp luật.

Bị cáo phạm hai tội Mua bán người và tội Mua bán trẻ em nên áp dụng khoản 2 Điều 50 Bộ luật hình sự năm 1999 tổng hợp hình phạt chung cho cả hai tội buộc bị cáo phải thi hành .

Đối với hành vi xuất cảnh trái phép của bị cáo Lù Thị S, xét thấy chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự, cơ quan Điều tra đã ra quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức: Cảnh cáo là thỏa đáng, Hội đồng xét xử không xem xét.

Trong vụ án còn có vợ chồng Cứ Thị D, Sú S (là người có quốc tịch Trung Quốc) Cơ quan điều tra đã tách ra để phối hợp với Công an Trung Quốc lập hồ sơ quản lý và điều tra xác minh làm rõ, nếu có đủ căn cứ để chứng minh hành vi phạm tội của Cứ Thị  D và Sú S sẽ xử lý sau. Nên Hội đồng xét xử không có cơ sở để xem xét trong cùng vụ án này.

[4]. Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa bị hại, người có quyền lợi liên quan yêu cầu bị cáo Lù Thị S phải bồi thường các khoản tiền như sau:

– Bị hại Lù Thị Ph tiền danh dự, nhân phẩm bị xâm hại theo qui định của pháp luật.

– Ông Lù Sào D, (bố đẻ của Lù Thị Phui) tiền công đi tìm bị hại Lù Thị Ph là 25 triệu đồng.

Trong quá trình điều tra. Bị hai Sùng thị S có đề nghị buộc bị cáo Seo phải bồi thường tiền danh dự, nhân phẩm bị xâm hại là 10.000.000đ.

– Ông Sùng Văn K (bố đẻ của Sùng Thị S) tiền công đi tìm bị hại Sùng Thị S là 35 triệu đồng.

Trong quá trình Điều tra Hầu Seo S (là chồng của bị cáo S) đã tự nguyện bồi thường cho mỗi người bị hại 2.000.000đ, đề nghị Hội đồng xét xử khấu trừ cho bị cáo.

Tại phiên tòa bị cáo S không nhất với yêu cầu của các bị hại và người có quyền lợi liên quan, đề nghị Hội đồng xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử, xét thấy cần chấp nhận một phần yêu cầu của Bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ có liên quan những chi phí thực tế,  căn cứ vào quy định tại Điều 585 và Điều 592 của BLDS, buộc bị cáo phải bồi thường thiệt hại cho các bị hại và người có quyền lợi liên quan các khoản tiền như sau:

– Bồi thường tiên công đi tìm bị hại cho ông Lò Seo D số tiền 5 triệu đồng và ông Sùng Văn K số tiền 5 triệu đồng và khấu trừ số tiền ông Hầu Seo S đã bồi thường cho ông Diu 2.000.000đ và ông Kinh 2.000.000đ. Bị cáo còn phải chịu bồi thường cho ông D và ông K mỗi người là 3.000.000đ (ba triệu đồng).

– Bồi thường tiền danh dự nhân phẩm cho bị haị Lò thị Phvà Sùng Thị Smỗi người với tiền là 6.500.000đ

[5]. Về án phí, do bị cáo bị kết tội và phải bồi thường thiệt hại cho người bị hại, nên bị cáo phải chịu án phí theo quy định tại Điều 136 của BLTTHS năm 2015 và Điều 23 và Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

– Tuyên bố bị cáo Lù Thị S phạm hai tội: Tội Mua bán người và tội Mua bán trẻ em.

– Về hình phạt: Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 119; điểm e khoản 2 Điều 120, điểm b,p khoản 1 và khoản 2 Điều 46, Điều 50; Điều 69, Điều 74 Bộ luật hình sự 1999; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội, vận dụng khoản 3 Điều 7; Điều 91; điểm d khoản 2 Điều 150 và điểm đ khoản 2 Điều 151; Điều 101 Bộ luật hình sự 2015.

Xử phạt bị cáo Lù Thị S 04 (Bốn) năm tù về tội Mua bán người; 07 (Bảy) năm tù về tội Mua bán trẻ em. Tổng hợp hình phạt chung của hai tội buộc bị cáo phải chấp hành 11 (Mười một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 16/6/2017

– Về dân sự: Áp dụng Điều 42 của BLHS năm 1999, Điều 585 và Điều 592 BLDS buộc bị cáo Lù Thị S phải bồi thường như sau:

– Bồi thường tiền chi phí đi tìm bị hại, cho ông Lò Seo D, SN 1957; trú tại Thôn Nấm L, xã Nấm D, huyện Xín M tỉnh Hà Giang số tiền 05 (Năm) triệu đồng và ông Sùng Văn K SN 1972; trú tại Thôn Nấm L, xã Nấm D, huyện Xín M tỉnh Hà Giang số tiền 05 (Năm) triệu đồng và được khấu trừ số tiền ông Hầu Seo S đã bồi thường cho ông D 2.000.000đ  (Hai  triệu  đồng) và ông  K 2.000.000đ (Hai triệu đồng). Bị cáo S còn phải bồi thường cho ông Lù Seo D số tiền 3.000.000đ (Ba triệu đồng) và ông Sùng Văn K số tiền là 3.000.000đ (Ba triệu đồng).

– Bồi thường tiền danh dự nhân phẩm cho bị haị Lò thị Ph SN 1996 và Sùng Thị S (Tức: Ch) SN 1994, cùng trú taị: Thôn Nấm L, xã Nấm D, huyện Xín M tỉnh Hà Giang,  mỗi người với tiền là 6.500.000đ (Sáu triệu năm trăm nghìn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo quy định tại Điều 357 của Bộ luật dân sự.

– Về án phí: Áp dụng Điều 136 của BLTTHS năm 2015, Điều 23 và Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, buộc bị cáo LùThị Seo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 950.000 ( Chín trăm năm mươi nghìn) đồng án phí dân sự có giá ngạch.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Báo cho bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Báo cho bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Luật sư bào chữa công ty luật Dragon

Xếp hạng
5/5

Chia sẻ

Share on facebook
Share on twitter
Share on linkedin
Share on pinterest
Share on tumblr

Tư vấn trực tuyến

Bài viết liên quan

Giải đáp thắc mắc

Tội huỷ hoại tài sản nhà nước

Tội hủy hoại tài sản nhà nước được quy định cụ thể trong Bộ luật Hình sự và có thể bị xử lý nghiêm theo pháp luật. Dưới đây là một số thông tin chung về tội hủy hoại tài sản: Định nghĩa: Tội hủy hoại tài sản là hành

Xem chi tiết »

Thời hạn tạm giam trong vụ án hình sự?

Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, thời hạn tạm giam bị can để điều tra không quá: 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng. 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng. 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội

Xem chi tiết »

Làm gì khi bị lừa đảo qua mạng

Luật sư tư vấn khi bị lừa đảo quan mạng, bạn cần bình tĩnh và thực hiện các bước sau: Dừng ngay việc gửi tiền hoặc thực hiện bất kỳ hành động nào khác theo yêu cầu của kẻ lừa đảo. Chặn tất cả các liên lạc từ kẻ lừa

Xem chi tiết »

ĐOÀN LUẬT SƯ HÀ NỘI

CÔNG TY LUẬT DRAGON

Giám đốc – Thạc sĩ Luật sư:  Nguyễn Minh Long

Công ty luật chuyên:

Hình sự – Thu hồi nợ – Doanh nghiệp – Đất Đai – Trọng tài thương mại – Hôn nhân và Gia đình.

  • Văn phòng luật sư quận Cầu Giấy:  Phòng 6 tầng 14 tòa nhà VIMECO đường Phạm Hùng, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
  • Văn phòng luật sư quận Long Biên: Số 24 ngõ 29 Phố Trạm, Phường Long Biên, Quận Long Biên, Hà Nội
  • Điện thoại: 1900 599 979 / 098.301.9109Email: dragonlawfirm@gmail.com

Hệ thống Website:

#luatsubaochua, #luatsutranhtung, #luatsuhinhsu, #luatsugioibaochua, #luatsubaochuahanoi, #luatsubaochuahaiphong

Điều luật tham khảo

Văn bản luật

Thủ tục liên quan đến thuê luật sư

Chi phí thuê luật sư bào chữa vụ án hình sự

Luật hình sự là quan hệ xã hội phát sinh giữa Nhà nước và người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội khi các chủ thể này thực hiện tội phạm. Theo quy định tại Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, những người có quyền nhờ luật sư bào chữa bao gồm:

  • Người bị bắt.
  • Người bị tạm giữ.
  • Bị can.
  • Bị cáo.
  • Bị hại.
  • Nguyên đơn dân sự.
  • Bị đơn dân sự.
  • Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.

Ngoài những đối tượng trên, theo quy định tại Điều 27 Luật Hình sự năm 2012, người đại diện hoặc người thân thích của người bị buộc tội cũng có quyền được nhờ luật sư bào chữa cho người bị buộc tội.

Quá trình tố tụng bắt đầu từ giai đoạn điều tra – truy tố – xét xử – thi hành án. Bất kể một cá nhân, đại diện, tổ chức nào ngay khi nhận được giấy mời, giấy triệu tập của cơ quan điều tra hoặc tại bất kỳ thời điểm nào trong quá trình tố tụng nêu trên đều có quyền và cần thiết phải nhờ sự hỗ trợ của luật sư.

Tuy nhiên, vì quá trình tố tụng kéo dài đói hỏi người bảo vệ quyền lợi cho thân chủ phải là người đồng hành cùng thân chủ trong xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự. Do đó, thời điểm tốt nhất để có thể nhờ luật sư bào chữa là ngay khi nhận được giấy triệu tập từ cơ quan điều tra. Vì, khi đó, luật sư có thể can thiệp pháp lý và bảo vệ cho thân chủ ngay từ giai đoạn đầu tiên.

Luật sư hình sự sẽ giúp ích gì cho bạn?

Luật sư hình sự tham gia vào vụ án hình sự trong suốt quá trình tố tụng từ sơ thẩm đến phúc thẩm hoặc có thể trong giai đoạn tái phẩm hoặc giám đốc thẩm với vai trò là người được nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự ủy quyền tham gia vụ án hoặc là người bảo vệ quyền và lợi ích cho thân chủ.

Tham gia vào ngay từ giai đoạn xác minh ban đầu, khi có giấy triệu tập và trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, luật sư hình sự có những nhiệm vụ sau:

  • Nghiên cứu, xác minh, thu thập chứng cứ theo quy định pháp luật để bảo vệ thân chủ. Đây là một trong những quyền và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 73 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
  • Đóng vai trò là người bảo vệ cho thân chủ tại những phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Giúp phiên tòa có cái nhìn khách quan hơn về động cơ, hoàn cảnh của thân chủ.
  • Luật sư hình sự là người am hiểu pháp luật, vận dụng những kỹ năng của một người luật sư, linh hoạt, mềm dẻo trong quá trình làm việc với cơ quan điều tra, cơ quan tiến hành tố tụng, giúp bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho thân chủ của mình.
  • Luật sư hình sự sẽ là người tư vấn đưa ra những giải pháp tốt nhất, đảm bảo đúng quy định pháp luật cho thân chủ của mình.

Vì sao bị can/bi cáo nên nhờ/thuê luật sư hình sự ngay từ ban đầu?

  • Từ khi bị triệu tập, nghi vấn phạm tội: có thể thuê luật sư ngay từ đầu để bảo vệ quyền lợi, có thể bị hình sự hóa trong quan hệ hình sự trong quá trình điều tra xét xử.
  • Giai đoạn tạm giam điều tra: Luật sư tiếp xúc trực tiếp với bị can/thân chủ hỏi cung, đối chất, đề xuất, kiến nghị tới cơ quan tiến hành tố tụng, yêu cầu họ thực hiện đúng quy định pháp luật để bảo cho thân chủ.
  • Tham gia bảo vệ (bào chữa) cho thân chủ tại những phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Giúp phiên tòa có cái nhìn khách quan hơn về động cơ, hoàn cảnh của thân chủ.
  • Luật sư hình sự là người am hiểu pháp luật, vận dụng những kỹ năng của một người luật sư, linh hoạt, mềm dẻo trong quá trình làm việc với cơ quan điều tra, cơ quan tiến hành tố tụng, tranh tụng giúp bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho thân chủ của mình.
  • Luật sư hình sự sẽ là người tư vấn đưa ra những giải pháp tốt nhất, đảm bảo đúng quy định pháp luật cho thân chủ của mình.

Đối với người bị hại thì Luật sư hình sự sẽ giúp ích những gì?

  • Luật sư thu thập chứng cứ
  • Tư vấn pháp luật hình sự cho người bị hại hiểu được hành vi của bi can/bị cáo biết được tội danh mà cơ quan điều tra khởi tố với người phạm tội đã đúng hay chưa
  • Giúp cho người bị hại soạn thảo các đơn từ kiến nghị để việc khởi tố/truy tố đối với bị can gây ra thương tích, gây ra thiệt hại cho người bị hại là “đúng người đúng tội”
  • Vấn đề về bồi thường: Luật sư tư vấn soạn thảo tính toán mức bồi thường để đưa ra yêu cầu xém xét bồi thường.

Tiêu chí để lựa chọn dịch vụ luật sư hình sự là gì?

Thông thường, mọi người có xu hướng lựa chọn luật sư thông qua quen biết vì cho rằng luật sư thông qua quen biết sẽ có độ tín nhiệm cao hơn hoặc là và có thể “nhờ vả” được. vậy đây có phải là một tiêu chí để lựa chọn luật sư?

Theo quy định tại quy tắc số 5 Quyết định số 201/QĐ-HĐLSTQ của liên đoàn luật sư Việt Nam về quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam thì một trong những quy tắc hành nghề chính là bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng, đây là một trong những quy tắc mà bất kì luật sư nào cũng thuộc nằm lòng.

Hơn nữa, hiện nay cuộc cách mạng cải cách tư pháp đã loại bỏ rất nhiều tiêu cực trong hoạt động tố tụng, quá trình xét xử, theo thông tư liên tịch số 03/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP quá trình xét xử phải được ghi âm ghi hình đảm bảo sự minh bạch rõ ràng tránh những hoạt động, hành vi tiêu cực trong xét xử.

Bất kỳ luật sư nào cũng có nghĩa vụ bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích cho thân chủ của mình, và quy trình hoạt động tố tụng cũng đã được quy định chặt chẽ hơn, các hoạt động tiêu cực cũng từ đó bị triệt tiêu dần. Do đó, yếu tố người thân người quen không phải là một trong những yếu tố, tiêu chí để lựa chọn luật sư, mà tiêu chí để lựa chọn luật sư bao gồm những tiêu chí sau:

  • Luật sư có chuyên môn trong lĩnh vực hình sự, đây là một yếu tố quan trọng của một luật sư hình sự vì phải hiểu rõ lý luận pháp luật, cập nhật thường xuyên những thay đổi của pháp luật, am hiểu cơ chế hoạt động điều tra thì mới có thể bảo vệ tốt cho thân chủ của mình.
  • Luật sư có kinh nghiệm trong hoạt động tố tụng hình sự, trong thực tiễn và tham gia tố tụng trong nhiều vụ án vì càng tham gia nhiều vụ án thì càng tích lũy được nhiều bản lĩnh, kinh nghiệm thâm niên lâu có thể giải quyết được không chỉ những vấn đề pháp luật mà vấn đề quan hệ với các cơ quan tố tụng, cơ quan điều tra.
  • Thấu hiểu hoàn cảnh, động cơ, lý do, hoàn cảnh của thân chủ ví dụ như: do hoàn cảnh khó khăn, do nền tảng gia đình không tốt, do rơi vào tình thế bắt buộc, … từ đó mới xây dựng được phương án, cung cấp dịch vụ tốt nhất cho thân chủ.
  • Chi phí dịch vụ luật sư, tùy vào từng trường hợp, vụ việc cụ thể chi phí luật sư sẽ khác nhau, có những vụ án có tính chất phức tạp, thì ngoài chi phí luật sư còn nhiều chi phí khác như chi phí giám định thương tích thương tật, giám định tự thi, chi phí dựng hiện trường, … Do đó, Tùy vào từng vụ việc cụ thể và hoàn cảnh của thân chủ để đưa ra mức phí phù hợp.

Phí dịch vụ luật sư hình sự được tính như thế nào?

Một trong những nguyên tắc hành nghề luật sư phải thông báo rõ ràng mức thù lao, chi phí cho khách hàng, tuy nhiên, vì tính chất nhạy cảm của vụ án hình sự, chi phí dịch vụ hình sự không giống như các chi phí dịch vụ luật sư khác, không có mức phí cố định, rõ ràng.

Như đã đề cập ở trên, tùy vào từng trường hợp cụ thể của vụ việc mà phí dịch vụ luật sư sẽ khác nhau. Chi phí luật sư trong vụ án hình sự rất phức tạp, tùy vào từng sự việc, luật sư đưa ra mức chi phí cụ thể, do đó, quý khách hàng cần phải gặp trực tiếp với luật sư của công ty luật để có thể trao đổi và đánh giá tính phức tạp của vụ việc mới có thể đưa ra được mức phí phù hợp

Ngoài chi phí dịch vụ luật sư, còn có những khoản phí riêng khác, không nằm trong chi phí dịch vụ luật sư như:

  • Chi phí giám định thương tật
  • Chi phí cho người làm chứng
  • Chi phí bồi thường dân sự

Có cam kết kết quả trong vụ án hình sự không?

Công ty luật Dragon của chúng tôi đảm bảo thực hiện công việc theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định và đảm bảo tuân thủ đúng 27 quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam theo quy định tại Quyết định số 201/QĐ-HĐLSTQ ngày 13/12/2019 của Hội Đồng luật sư toàn quốc.

Công ty chúng tôi luôn đặt quyền lợi khách hàng lên đầu, cam kết giữ bí mật những thông tin liên quan đến khách hàng, đem những hiểu biết, kinh nghiệm trong hoạt động tố tụng hình sự, sự tận tâm, nhiệt tình của mình đến cho khách hàng.

Trên đây là toàn bộ nội dung bài giới thiệu dịch vụ luật sư hình sự và hướng dẫn cách chọn luật sư hình sự. Quý khách hàng nếu có nhu cầu sử dụng dịch vụ luật sư hình sự của công ty chúng tôi hoặc có thắc mắc về chính sách dịch vụ luật sư của công ty vui lòng liên hệ hotline 098.301.9109 để được tư vấn và hỗ trợ kịp thời.

Luật Dragon nhận hỗ trợ “tư vấn” trực tuyến 24/24 qua các hình thức như sau:

  • Tư vấn pháp luật qua EMAIL: congtyluatdragon@gmail.com
  • Tư vấn pháp luật qua FACEBOOK: Fanpage Luật Dragon
  • CÔNG TY LUẬT DRAGON

    LUÔN ĐỒNG HÀNH CÙNG QUÝ KHÁCH!

    TRỤ SỞ CHÍNH CÔNG TY LUẬT DRAGON:

    Add: Phòng 14.6, Tòa nhà Vimeco, Lô 9E, Đường Phạm Hùng, Quận Cầu Giấy, Hà Nội.

    Tel: 1900. 599. 979

    VĂN PHÒNG ĐẠI DIỆN LUẬT SƯ TẠI QUẬN LONG BIÊN:

    Add: Số 24 ngách 29 Phố Trạm phường Long Biên, quận Long Biên, thành phố Hà Nội

    Tel : 1900. 599. 979

    VĂN PHÒNG LUẬT SƯ TẠI HẢI PHÒNG:

    Add: Số 102, Lô 14 đường Lê Hồng Phong, Phường Đằng Lâm,Quận Hải An, Hải Phòng.

    Tel : 1900. 599. 979

    VĂN PHÒNG LUẬT SƯ TẠI TP HCM:

    Tel : 1900. 599. 979

    =====================

    BAN GIÁM ĐỐC CÔNG TY LUẬT DRAGON:

    Luật Sư Nguyễn Minh Long

    Điện Thoại: 098.301.9109

    Email: dragonlawfirm@gmail.com

Quy trình giải quyết vụ án hình sự

Từ khóa: thuê luật sư vụ án hình sự,Giá thuê luật sư,Chi phí thuê luật sư vụ án hình sự,Có nên thuê luật sư,Chi phí thuê luật sư có được bồi thường,Hợp đồng thuê luật sư,Chi phí thuê luật sư bào chữa, chi phí thuê luật sư bào chữa

Luật sư bào chữa giỏi tại Hải Phòng

Xã hội càng phát triển, nghề luật sư càng có vai trò quan trọng. Hằng ngày, nhiều tranh chấp, kiện tụng phát sinh và luật sư phải đứng ra tranh đấu để bảo vệ lẽ phải, công lý.

Bảo vệ lẽ phải

Luật sư Nguyễn Minh Long ở Văn phòng luật sư Dragon (Chi nhánh Hải Phòng) đã có gần 10 năm gắn bó với nghề. Giống như nhiều đồng nghiệp khác, công việc trong ngày của anh khá bận rộn và luôn phải di chuyển. Từ việc xếp lịch gặp khách hàng, lịch làm việc tại tòa án, đi thu thập chứng cứ… đều được anh thực hiện một cách cẩn trọng. Nhiều khi các luật sư còn trở thành chuyên gia tâm lý giúp thân chủ và người nhà yên tâm, tin tưởng vào lẽ phải.

Luật sư Long cho biết: “Nhiệm vụ của chúng tôi là bảo vệ công lý và lẽ phải. Vì vậy, mỗi vụ việc đều phải được tìm hiểu một cách kỹ lưỡng, chính xác, mất nhiều thời gian, công sức. Chỉ cần một sai sót cũng có thể dẫn đến những hậu quả khó lường”.

Giữ tâm trong sáng

Luật sư Long chia sẻ, hơn 10 năm gần đây, xã hội, con người có nhiều thay đổi, phát sinh nhiều mâu thuẫn phức tạp. Các vụ án liên quan đến kinh tế, hình sự, tranh chấp đất đai, hôn nhân – gia đình xảy ra nhiều hơn, phức tạp hơn. Vì thế, công việc của giới luật sư cũng vất vả gấp nhiều lần. Tuy nhiên, anh quan niệm phải luôn giữ tâm trong sáng để mỗi vụ việc đều được xử lý chính xác, theo đúng pháp luật. Nhiều lúc, các luật sư còn trở thành chuyên gia tư vấn  miễn phí.

Năm 2012, luật sư Long nhận tư vấn thủ tục ly hôn cho một phụ nữ ngoài 50 tuổi ở Quận Hồng Bàng. Do người chồng làm thợ xây nên hay đi nhiều nơi, có quan hệ phức tạp, về nhà thường chửi mắng vợ con. Không chịu nổi tình cảnh này, người vợ quyết định ly hôn. Qua tiếp xúc và tìm hiểu câu chuyện, anh Phán nhận thấy vẫn có cơ hội cứu vãn cuộc hôn nhân này. Bằng vốn kinh nghiệm qua từng vụ án và đời sống thường ngày, anh phân tích, giảng giải để người phụ nữ kia hiểu được điều hơn, thiệt. Lúc đầu, người phụ nữ này không nghe mà cương quyết đưa chồng ra tòa. Tuy nhiên, sau nhiều lần tiếp xúc, động viên, phân giải, họ đã chữa lành được vết thương, bỏ qua những lỗi lầm để hàn gắn trở lại.

Một số người vẫn hay nghĩ luật sư là nghề có nhiều quan hệ, kiếm được nhiều tiền nhưng thực tế những khó khăn, vất vả chỉ có người trong nghề mới hiểu hết. Để có thể trở thành một luật sư phải trải qua một thời gian dài học tập và đào tạo. Theo quy định, ngoài tấm bằng cử nhân, luật sư phải qua lớp đào tạo kỹ năng hành nghề luật sư, thời gian tập sự và thi qua kỳ thi kết thúc tập sự. Thời gian này tối thiểu là 6 năm hoặc có thể kéo dài hơn. Có người theo đuổi cả chục năm mới trở thành một luật sư.

Luật sư Long cho biết: “Công việc vất vả lắm nhưng thu nhập của anh em luật sư cũng chỉ đủ sống. Nhiều khi gặp trường hợp khó khăn, người cao tuổi, gia đình chính sách, chúng tôi chỉ làm giúp chứ không nhận phí. Gặp người tốt, sau khi tư vấn hay hoàn tất vụ việc thì họ đến có lời cảm ơn. Nhưng cũng có trường hợp mình thấy vấn đề của họ khiếu nại là sai, phân tích để nhận ra lẽ phải thì họ phản ứng ra mặt, thậm chí còn có những lời nói không đúng mực. Dù vậy, chúng tôi vẫn luôn giữ vững cái tâm với nghề”.

Công việc vất vả nên không phải ai cũng gắn bó được với nghề. Vì thế, người trẻ thường ít chọn học luật và đầu tư thời gian, chất xám để trở thành luật sư. Hiện nay, Hải Phòng có hơn 100 luật sư đang hành nghề, trong đó có khoảng 30 người là người cao tuổi, đã nghỉ hưu. Chỉ có tình yêu nghề mới giúp họ gắn bó với nghề luật sư trong thời gian dài. Mặc dù khó khăn là thế nhưng các luật sư như anh Long  luôn tin rằng nghề luật sư sẽ có triển vọng trong tương lai vì góp phần bảo đảm công bằng xã hội.

Văn phòng luật sư Dragon Hải Phòng

Khi nào cần thuê luật sư bào chữa

Thuê luật sư là việc người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị buộc tội, bị can, bị cáo và người thân thích của họ là cha, mẹ, vợ, con, ông, bà… thuê luật sư bào chữa cho trường hợp của gia đình nhà mình

Vai trò của Luật sư, luật sư tham gia vụ án hình sự với vai trò là người bào chữa, khi thực hiện bào chữa cho người bị buộc tội, người bị tạm giữ, người bị tạm giam, bị can, bị cáo trong tất cả các giai đoạn từ Điều tra vụ án, khởi tố vụ án, Truy tố vụ án và xét xử vụ án, luật sư sẽ thực hiện các quyền bào chữa để bảo chữa cho các bị can, bị cáo.

Thuê luật sư bào chữa cho người bị bắt là trường hợp người bị tình nghi hay còn gọi là nghi can có thể bị bắt quả tang hoặc bị tạm giữ song bắt hoặc bị mời về làm việc tại trụ sở cơ quan điều tra song bắt, trong tường hợp này người bị bắt có quyền thuê luật sư để bào chữa cho mình. Việc luật sư tham gia bào chữa từ giai đoạn này là hết sức cần thiết vì tham gia ngay từ ban đầu sẽ bảo đảm được quyền của người bị bắt cũng như làm sáng tỏ các sự kiện khách quan của vụ án

Thuê luật sư bảo chữa cho bị can khi phạm tội Khi một ai đó có hành vi phạm tội đã bị cơ quan Cảnh sát điều tra, cơ quan Công an khởi tố vụ án và khởi tố bị can, lúc đó người bị khởi tố trở thành bị can và có quyền mời luật sư bào chữa cho mình để tham gia vào vụ án. Luật sư khi tham gia bào chữa cho bị can sẽ giúp đỡ bị can về mặt pháp luật, sử dụng các biện pháp cần thiết và hợp pháp để bảo vệ bị can. Quá trình bào chữa của luật sư cho bị can từ khi bị mời lên làm việc, khi bị khởi tố tại cơ quan Điều tra, khi bị Viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền truy tố bị can bằng Bản cáo trạng và cho đến khi Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử. nói như vậy không có nghĩa là luật sư sẽ chấm dứt tư cách bào chữa cho bị can mà tư cách của bị can được chuyển sang thành tư cách Bị cáo.

Thuê luật sư bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa: Khi một bị can hay người bị buộc tội bị Tòa án nhân dân có thẩm quyền có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì lúc đó được chuyển sang một tư cách mới là tư cách bị cáo, Luật sư người bào chữa tiếp tục bào chữa cho bị cáo trong toàn bộ quá trình xét xử vụ án ở giai đoạn sơ thẩm hoặc phúc thẩm nếu bị cáo có kháng cáo và tiếp tục mời luật sư bào chữa cho mình. Luật sư bào chữa cho bị cáo có những quyền và nghĩa vụ nhất định, tư vấn và hỗ trợ pháp lý cũng như trao đổi với bị cáo để sao cho bào chữa cho bị cáo được tốt nhất.

Thuê luật sư tham gia vụ án hình sự là trường hợp đã xác định một vụ án hình sự, vụ án có thể hình thành từ giai đoạn khởi tố vụ án, khởi tố bị can và tiến hành điều tra hoặc có thể vụ án đã được Viện kiểm sát có thẩm quyền tiến hành xem xét truy tố ra tòa án và cũng có thể vụ án đã được tòa án chuẩn bị đưa ra xét xử sơ thẩm hoặc xét xử phúc thẩm. Luật sư tham gia vào vụ án hình sự sẽ thực hiện các nhiệm vụ quyền hạn của người bào chữa để nghiên cứu hồ sơ và bào chữa cho người được bào chữa.

Thuê luật sư bảo vệ cho người bị hại trong vụ án hình sự: Trong vụ án hình sự liên quan đến thiệt hại luật sư sẽ tham gia bảo vệ quyền và lợi ích của người bị hại, tham gia và các giai đoạn tố tụng tại Cơ quan Điều tra, Công an, Viện Kiểm sát và Tòa án; sao chụp hồ sơ tài liệu, thu thập chứng cứ và đưa ra cũng như bảo vệ các yêu cầu về bồi thường thiệt hịa cho người bị hại. Trong quá trình tranh tụ tại Tòa án, Luật sư sẽ phát biểu quản điểm luận tội đối với các bị cáo đã gây ra cho bị hại; nếu vụ án cần phải kháng cáo luật sư sẽ giúp bị hại thực hiện việc kháng cáo bản án theo quy định.

Thuê luật sư bào chữa cho người chưa thành niên, người chưa thành niên khi phạm tội là người dưới 18 tuổi, theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự thì đây là những người đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (14 tuổi) nhưng chưa thành niên (dưới 18 tuổi) khi phạm tội thì bắt buộc phải có luật sư. Thông thường bố mẹ hoặc người đại diện hợp pháp hay người giám hộ sẽ thuê luật sư bào chữa. Trường hợp không thể có điều kiện thuê luật sư thì cơ quan tiến hành tố tụng sẽ yêu cầu Đoàn luật sư chỉ định luật sư bào chữa. Đây là quyền cơ bản của người dưới thành niên để có thể bào chữa cho hộ được tốt nhất.

Luật sư bào chữa để trả hồ sơ điều tra bổ sung là trường hợp luật sư tham gia bào chữa cho bị can, bị cáo trong vụ án hình sự và vào từng giai đoạn cụ thể có thể là giai đoạn truy tố tại Viện kiểm sát, Luật sư kiến nghị việc trả hồ sơ cho cơ quan Điều tra để tiến hành điều tra bổ sung hoặc sau khi Viện kiểm sát đã quyết định truy tố bằng Bản cáo trạng ra Tòa án có thẩm quyền thì Luật sư kiến nghị Thẩm phán thụ lý vụ án ra Quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung hoặc Tại phiên tòa luật sư bào chữa để Hội đồng xét xử trả hồ sơ điều tra bổ sung.

Giai đoạn mà luật sư có quyền tham gia theo quy định tại Bộ luật TTHS, Luật Luật sư và các văn bản pháp luật liên quan, cụ thể:

I. Giai đoạn tố tụng mà luật sư có thể tham gia

Theo quy định tại khoản 2 Điều 72 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 (BLTTHS) thì người bào chữa có thể là:

“a) Luật sư;

b) Người đại diện của người bị buộc tội;

c) Bào chữa viên nhân dân;

d) Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý.”

Bên cạnh đó, Điều 74 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định về thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng như sau:

“Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can.

Trường hợp bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ.

Trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.”

Căn cứ những quy định trên, luật sư có thể tham gia tố tụng để bào chữa cho em bạn khi em bạn hoặc gia đình bạn có giấy mời luật sư sau đó Luật sư sẽ tiến hành những thủ tục cần thiết để được cấp Giấy chứng nhận bào chữa theo quy định của BLTTHS và những văn bản có liên quan.

II. Quyền hạn của Luật sư (người bào chữa)

Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa được quy định cụ thể tại Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 như sau:

“1. Người bào chữa có quyền:

a) Gặp, hỏi người bị buộc tội;

b) Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can;

c) Có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này;

d) Được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này;

đ) Xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình, quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;

e) Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế;

g) Đề nghị tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này; đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

h) Thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

i) Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;

k) Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản;

l) Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa từ khi kết thúc điều tra;

m) Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa;

n) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

o) Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất theo quy định của Bộ luật này.

Bạn có thể tham khảo thêm nội dung tư vấn áp dụng văn bản pháp luật theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003:

I. Giai đoạn tố tụng mà luật sư có thể tham gia

Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) thì người bào chữa có thể là:

1.  Luật sư;

2.  Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;

3.  Bào chữa viên nhân dân.

Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 58 BLTTHS có quy định: Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can, Trong trường hợp bắt người theo quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.

Căn cứ những quy định trên, luật sư có thể tham gia tố tụng để bào chữa cho em bạn khi em bạn hoặc gia đình bạn có giấy mời luật sư sau đó Luật sư sẽ tiến hành những thủ tục cần thiết để được cấp Giấy chứng nhận bào chữa theo quy định của BLTTHS và những văn bản có liên quan.

II. Quyền hạn của Luật sư (người bào chữa)

Theo quy định tại khoản 2 Điều 58 BLTTHS thì Luật sư (người bào chữa) có quyền:

1.  Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;

2.  Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can;

3.  Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này;

4.  Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác;

5.  Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

6.  Gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam;

7.  Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật;

8.  Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà;

9.  Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

10. Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Thuê luật sư bào chữa hình sự ở Hà Nội

Gọi cho một luật sư chuyên hình sự tại Hà Nội : 1900. 599. 979

Bạn đã bị buộc tội về một tội ác mà bạn đã không phạm phải và tìm kiếm công lý nhanh chóng và không bị tổn thương trong khi duy trì danh dự và nhân phẩm của bạn? Hoặc, có lẽ bạn đã là nạn nhân của một tội ác và tìm kiếm sự trừng phạt hợp pháp đối với những người đã làm hại bạn hoặc gia đình bạn. Bạn thậm chí có thể tự mình phạm tội và mong muốn giải quyết tốt nhất có thể. Bất kể nguyên nhân hay động cơ, Văn phòng Luật sư Dragon sẽ tạo điều kiện cho công lý nhanh chóng và phù hợp cho các khách hàng tại Hà Nội và Hải Phòng của chúng tôi để họ nhận được phán quyết tốt nhất có thể.

Đó là, nếu bạn đã bị nhà nước buộc tội theo bộ luật hình sự, bắt buộc phải xuất hiện trước cơ quan quản lý hoặc muốn kháng cáo quyết định, Văn phòng Luật sư Dragon sẽ luôn cung cấp cho bạn sự hài lòng hoàn toàn. Hơn nữa, chúng tôi tính phí trên cơ sở lãi suất cố định để bạn nhận thức đầy đủ về các khoản chi tiêu trước khi chúng tôi thực hiện trường hợp của bạn. Bạn sẽ không bao giờ phải lo lắng về các cáo buộc ẩn hoặc những bất ngờ khó chịu khác trước và sau khi phán quyết được đưa ra.

Hơn nữa, Văn phòng Luật sư Dragon sẽ luôn bảo vệ bạn một cách trung thực và đạo đức. Chúng tôi sẽ sử dụng mọi phương tiện theo ý của chúng tôi để đảm bảo rằng công lý được đáp ứng và bạn sẽ nhận được phán quyết tốt nhất có thể, đưa ra bằng chứng. Văn phòng luật sư Dragon cũng sẽ tham khảo đầy đủ với bạn về các tùy chọn có sẵn và đề xuất lựa chọn tốt nhất cho nhu cầu duy nhất của bạn. Đó là, chúng tôi luôn đặt lợi ích tốt nhất của bạn lên hàng đầu và sẽ thực hiện các bước chủ động để vượt ra ngoài sự đại diện đơn thuần.

Ví dụ, các luật sư hình sự tại Hà Nội của chúng tôi được yêu cầu đăng ký vào các chương trình sáng kiến ​​giáo dục thường xuyên để họ cập nhật kiến thức hiểu biết hệ thống pháp lý – và tất cả các sắc thái của nó – một cách triệt để. Chúng tôi cũng đầu tư vào nghiên cứu và phát triển công nghệ để đảm bảo rằng kiến ​​thức về các đạo luật pháp lý của chúng tôi luôn cập nhật và chính xác.

Do đó, nếu bạn đã bị buộc tội hoặc là nạn nhân của tội phạm, bạn sẽ cần một luật sư pháp lý tốt nhất để đưa ra phán quyết mà bạn mong muốn. Các công tố viên và luật sư hình sự tận tâm, có kinh nghiệm và có trình độ học vấn cao của chúng tôi có một hồ sơ theo dõi thành công đã được chứng minh và có khả năng sẽ tạo điều kiện cho bản án mà bạn và gia đình bạn mong muốn. Hơn nữa, chúng tôi đã xử lý các vụ án hình sự từ rửa tiền đến giết người hàng loạt. Do đó, không có vụ án hình sự nào ở Hà Nội quá tầm thường hay khó khăn đối với các luật sư hình sự tại Văn phòng Luật sư Dragon.

Hãy cho chúng tôi về trường hợp hay vụ việc của bạn

Đại diện tư vấn trực tiếp của chúng tôi luôn sẵn sàng 24/7 để hỗ trợ bạn và có thể lên lịch tư vấn với chuyên gia luật của chúng tôi.

Thuê luật sư bào chữa cho người bị bắt

Thuê luật sư bào chữa cho người bị bắt là trường hợp người bị tình nghi hay còn gọi là nghi can có thể bị bắt quả tang hoặc bị tạm giữ song bắt hoặc bị mời về làm việc tại trụ sở cơ quan điều tra song bắt, trong tường hợp này người bị bắt có quyền thuê luật sư để bào chữa cho mình.

Người bị bắt tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt tạm giữa người bị bắt tạm giữ được nghe, nhận lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, quyết định phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp;

Người bị bắt tạm giữ trong trường hợp khẩn cấp có các quyền:

– Được biết lý do mình bị giữ;

– Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự;

– Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;

– Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

– Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tố tụng kiểm tra, đánh giá và các quyền khác

Người bị bắt tạm giữ có được quyền nhờ luật sư. Theo quy định thì người bị bắt tạm giữ có quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật sư bảo chữa cho mình. Nếu nhờ luật sư bào chữa họ có quyền yêu cầu cơ quan đang thụ lý vụ việc liên hệ luật sư để họ có thể nhờ luật sư bào chữa cho mình, ngoài ra họ cũng có các quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc giữ người, bắt người.

Người bị bắt theo quy định tại Điều 58 Bộ luật Tố tụng hình sự thì là bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc bắt theo quyết định truy nã. Khi bị bắt người bị bắt có các nghĩa vụ chấp hành lệnh bắt người và yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền bắt người theo quy định của pháp luật.

Người bị bắt khi bị bắt có quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật sư bào chữa và một số quyền cơ bản sau:

Được biết lý do mình bị giữ, bị bắt;
Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;
Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tố tụng kiểm tra, đánh giá;
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc giữ người, bắt người. Và một số quyền khác.
Khi bị tạm giữ có được thuê luật sư? Người bị tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ. Ngoài các quyền cơ bản được quy định tại Khoản 2 Điều 59 Bộ luật Tố tụng hình sự thì người bị tạm giữ có quyền tự bào chữa hoặc thuê luật sư bào chữa.

Thuê luật sư bào chữa tại Công ty luật Dragon. Vui lòng liên hệ: 1900.599.979

 

Khi chưa khởi tố mà nhận được giấy triệu tập của công an có nên thuê luật sư bào chữa

Tôi có giấy triệu tập của công an thành phố, liên quan đến tội trộm cắp xảy ra do bạn tôi làm đơn, mặc dù tôi khẳng định tôi không liên quan đến sự việc của bạn tôi mất trộm? mất bao nhiêu tiền? mất ở đâu ? như thế nào? bạn ấy làm đơn vu khống cho tôi.. Tôi bị công an gọi điện mời tôi, tôi vì không hiểu pháp luật nên đã ký hợp đồng thuê luật sư bào chữa bảo vệ cho tôi, đến lịch hẹn làm việc theo giấy triệu tập? Luật sư của tôi đi cùng tôi đến xuất trình tại công an điều tra như giấy giới thiệu, đơn mời luật sư bào chữa và thẻ luật sư, nhưng bên công an đã từ chối không cho luật sư bào chữa cho tôi tham gia với lý do, hiện nay chưa khởi tố vụ án, chưa khởi tố tôi, công an chỉ mời lên làm rõ sự việc, công an đề nghị tôi và luật sư bổ sung thêm hợp đồng dịch vụ pháp lý? Lúc đấy tôi thấy luật sư bảo tôi cứ làm việc với công an và luật sư bỏ ra về. Tôi rất hoang mang và đã bị sốc nên từ chối không làm việc với công an và xin hẹn buổi khác, tôi có nói với công an là phải có luật sư thì tôi mới làm việc sau đó tôi đi về. Luật sư của tôi không giải thích cho tôi biết lý do và ý kiến của cơ quan điều tra đúng hay sai? Nay tôi nhờ luật sư tư vấn ý kiến của công an như vậy có đúng không? luật sư bảo vệ cho tôi làm như vậy có đúng không? Tôi rất hoang mang khi tìm chọn một công ty luật có uy tín mà lại có một luật sư hành xử như vậy? Rất mong Công ty luật Dragon tư vấn gấp cho tôi.

Phúc đáp yêu cầu tư vấn pháp luật của anh/chị, đề nghị cho ý kiến về một số nội dung pháp lý liên quan đến việc: người bị kiến nghị khởi tố/bị tố giác có được mời Luật sư không, Luật sư Công ty luật Dragon có ý kiến như sau:

*) Đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác:

Theo như trình bày thì anh/chị đang bị tố giác về hành vi trộm cắp tài sản. Khoản 1 Điều 83 Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác là người được người bị tố giác nhờ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Luật sư là một trong những người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác (điểm a khoản 2 Điều 83 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015). Như vậy, anh/chị có quyền mời Luật sư để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình ngay từ khi bị tố giác (từ khi chưa có quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can).

Khoản 1 Điều 27 Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi bổ sung năm 2012) quy định: “Hoạt động tham gia tố tụng của luật sư phải tuân theo quy định của pháp luật về tố tụng và Luật này”.

Bộ Luật Tố tụng hình sự không quy định rõ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác phải xuất trình những giấy tờ gì khi làm việc với Cơ quan Cảnh sát điều tra. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm làm việc thực tế của Luật sư và quy định tại điểm a khoản 2 Điều 78 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì những giấy tờ Luật sư cần xuất trình khi làm việc với Cơ quan CSĐT là: Giấy giới thiệu của công ty luật cử luật sư đến cơ quan điều tra làm việc, Thẻ luật sư kèm theo bản sao có chứng thực và giấy yêu cầu đơn mời luật sư của người bị tố giác ( anh chị cũng như Luật sư không phải xuất trình Hợp đồng dịch vụ pháp lý).

Như vậy, việc công an từ chối không cho luật sư tham gia với lý do: hiện nay chưa khởi tố vụ án, chưa khởi tố bị can, công an chỉ mời lên làm rõ sự việc và đề nghị anh và luật sư bổ sung thêm hợp đồng dịch vụ pháp lý là vi phạm tố tụng.

*) Quyền của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác:

Khoản 3 Điều 83 Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 quy định: Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác có quyền:

  1. a) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
  2. b) Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
  3. c) Có mặt khi lấy lời khai người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố và nếu được Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên đồng ý thì được hỏi người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố. Sau mỗi lần lấy lời khai của người có thẩm quyền kết thúc thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có quyền hỏi người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố;
  4. d) Có mặt khi đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố;

đ) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Luật sư bào chữa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của anh/chị không đưa ra ý kiến nào và bỏ về khi bị công an từ chối là không thực hiện quyền của mình theo quy định trên. Không bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp tốt nhất cho khách hàng. Việc anh/chị từ chối không làm việc với công an, xin hẹn buổi khác và nói với công an là phải có luật sư bào chữa cho anh/chị thì anh/ chị mới làm việc với cơ quan điều tra là đúng với quy định của pháp luật.

Trên đây là quan điểm ý kiến của Thạc sĩ Luật sư Nguyễn Minh Long Giám đốc Công ty Luật Dragon – Đoàn Luật sư TP. Hà Nội về nội dung vụ viêcj trên.

Để biết thêm thông tin chi tiết bạn có thể liên hệ với Luật sư Hà Nội và Luật sư Hải Phòng theo địa chỉ dưới đây.

  1. Trụ sở chính Công ty Luật Dragon tại quận Cầu Giấy:  Phòng 6, Tầng 14, Tòa nhà VIMECO, Đường Phạm Hùng, Phường Trung Hòa, Quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội.
  2. VPĐD luật sư Công ty luật Dragon tại quận Long Biên: Số 24 Ngõ 29 Phố Trạm, phường Long Biên, quận Long Biên, Tp Hà Nội.
  3. Chi nhánh Công ty Luật Dragon tại Hải Phòng: Phòng 6 tầng 4 Tòa Nhà Khánh Hội, đường Lê Hồng Phong, quận Hồng Bàng, Tp Hải Phòng.

Công ty Luật Dragon cung cấp biểu phí và thù lao luật sư bào chữa tham khảo tại đây

Trân trọng!

CÔNG TY LUẬT DRAGON

Luật sư chuyên bào chữa vụ án hình sự

ĐIỀU LUẬT

ÁN LỆ