1900599979

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TC, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 31/2018/HSST NGÀY 04/01/2018 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 04 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện TC mở phiên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 28/2017/HSST ngày 23 tháng 11 năm 2017 đối với các bị cáo:

1. Bị cáo Nguyễn Thị Ngọc L; tên  gọi khác: Không; sinh năm: 1981 tại thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; nơi ĐKHKTT: Tiểu khu X, thị trấn TC, huyện TC, tỉnh Sơn La; trình độ văn hoá: 12/12; nghề nghiệp: Giáo viên; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Đắc B, đã chết và bà Đoàn Thanh L, sinh năm: 1951; chồng là Trương Thanh T (đã ly hôn) và có 2 con, lớn nhất 16 tuổi, nhỏ nhất 8 tuổi; tiền án, tiền sự: không; bắt tạm giam giữ từ ngày 28/7/2017 cho đến nay, có mặt.

2. Bị cáo Lương Thị Th; tên  gọi khác: Không; sinh năm: 1979, tại huyện TC, tỉnh Sơn La; nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Tiểu khu Y, thị trấn TC, huyện TC, tỉnh Sơn La; ; trình độ văn hoá: 12/12; nghề nghiệp: Giáo viên; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông  Lương Đình Th, sinh năm 1947 và bà Phạm Thị Th, sinh năm: 1950; chồng: Lưu Đức M (đã ly hôn) và có 2 con, lớn nhất 16 tuổi, nhỏ nhất 8 tuổi; tiền án, tiền sự: Không có; bắt tạm giam giữ từ ngày 27/7/2017, đến ngày 8/9/2017 thì được áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt.

3. Bị cáo Lò Văn Ng; tên  gọi khác: Không; sinh năm: 1986, tại xã TC, huyện TC, tỉnh Sơn La; nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Bản NH, xã TC, huyện TC, tỉnh Sơn La; trình độ văn hoá: 12/12; nghề nghiệp: Cán bộ y tế xã M; dân tộc: Thái; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ôn Lò Văn P, sinh năm: 1959 và bà Lò Thị X, sinh năm 1960; vợ là Hoàng Thị M, sinh năm: 1985, chưa có con; tiền án, tiền sự: Không có; bị bắt tạm giam giữ từ ngày 04/8/2017 đến ngày 8/9/2017 thì được áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt.

Những người bị hại:

– Ông Lò Văn Đ(sinh năm 1958), trú tại: Bản Đ, xã CP, huyện TC, tỉnh Sơn La, có mặt;

– Bà Cà Thị L (sinh năm: 1961), trú tại: Bản NS, xã CP, huyện TC, tỉnh Sơn La, có mặt;

– Anh Lò Văn T, sinh năm 1991; cùng trú tại: Bản C, xã CP, huyện TC, tỉnh Sơn La, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 7/6/2017, Cơ quan CSĐT Công an huyện TC nhận được  Đơn tố cáo của ông Lò Văn Đ(sinh năm 1958), trú tại: Bản Đ, xã CP, huyện TC, tỉnh Sơn La; bà Cà Thị L (sinh năm: 1961), trú tại: Bản NS, xã CP, huyện TC, tỉnh Sơn La; anh Lò Văn T (sinh năm: 1991), trú tại: Bản C, xã CP, huyện TC, tỉnh Sơn La về việc Nguyễn Thị Ngọc L (sinh năm: 1981), trú tại: Tiểu khu X, thị trấn TC, huyện TC, tỉnh Sơn La là Giáo viên Trưởng tiểu học xã Chiềng Bôm, huyện TC; Lương Thị Th (sinh năm: 1979), trú tại: Tiểu khu Y, thị trấn TC, huyện TC, tỉnh Sơn La là Giáo viên Trưởng tiểu học xã Chiềng Ly, huyện TC và Lò Văn Ng (sinh năm: 1986), trú tại: Bản Hùm, xã TC, huyện TC, tỉnh Sơn La là cán bộ y tế xã CP có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản tổng số tiền: 348.000.000 đ (Ba trăm bốn mươi tám triệu đồng) từ tháng 7 đến tháng 11/2014. Sau khi, nhận được Đơn tố cáo của ông Đ, bà L, anh T, Cơ quan CSĐT Công an huyện TC đã tiến hành triệu tập Nguyễn Thị Ngọc L, Lương Thị Th và Lò Văn Ng để làm rõ vụ việc. Tại Cơ quan điều tra, La, Th và Ngh đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như sau:

Vào đầu năm 2014, Lò Văn Ng có quan hệ quen biết với Lương Thị Th qua mạng xã hội Facebook. Đến khoảng tháng 7/2014, Nguyễn Thị Ngọc L và Lương Thị Th là bạn thân có bàn với nhau việc đưa ra những thông tin gian dối là L và Th có khả năng xin được việc làm trên địa bàn huyện TC, ai có nhu cầu xin việc cho con, cháu thì cứ tin tưởng giao tiền thì L và Th sẽ giúp. Để thực hiện ý đồ của mình, Th đã gặp và nói với Lò Văn Ng có mối quan hệ xã hội quen biết với L cóthể xin được việc làm trên địa bàn huyện TC và bảo Ng nếu biết ai có nhu cầu xin việc làm thì giới thiệu với Th và L. Tại thời điểm đó, Ng là cán bộ đang công táctại Trạm y tế xã CP, huyện TC và có quen biết với các đồng nghiệp là ông Lò Văn Đ; bà Cà Thị L; bà Lò Thị Ng (bà của anh Lò Văn T) sinh năm: 1960 trú tại: Bản T, xã CP, huyện TC, tỉnh Sơn La nên Ng có kể chuyện việc Ng quen biết người có khả năng xin được việc làm. Do có con, cháu đã học xong các trường chuyên nghiệp nhưng chưa xin được việc làm nên ông Đôi, bà L, bà Ngọc đã tin tưởng và nhờ Ng giới thiệu người có thể xin được việc làm cho con, cháu của mình. Qua sự giới thiệu của Ng, ông Đ, bà L, bà Ngọc đã gặp gỡ trao đổi với L và Th để nhờ L và Th xin việc giúp cho người thân. Từ đó, L và Th đã nhiều lần nhận tiền, tổng cộng là: 348.000.000 đ (Ba trăm bốn mươi tám triệu đồng) để chạy việc cho 03 trường hợp trên nhưng L và Th đã không xin việc như đã thỏa thuận và làm thất lạchồ sơ xin việc và sử dụng số tiền vào mục đích khác dẫn đến không còn khả năng chi trả cho những người bị hại. Cụ thể:

Trường hợp thứ nhất: Khoảng tháng 7/2014, Lò Văn Ng nói với bà Lò ThịNg là có chỉ tiêu vào công tác tại y tế học đường tại huyện TC, tỉnh Sơn La với giá120.000.000 đ (Một trăm hai mươi triệu đồng) nên bà Ng đã bảo Lò Văn T (cháucủa bà Ngọc) đến Trạm y tế xã CP để gặp Ng bàn bạc, trao đổi. Quá trình nóichuyện, Ng bảo Tỉnh làm 02 bộ hồ sơ và đặt cọc số tiền 10.000.000 đ (Mười triệu đồng), Tỉnh đồng ý. Tiếp đó, Tỉnh cầm 02 bộ hồ sơ cùng 10.000.000 đ đến Trạm y tế xã CP để gặp Ng, rồi cùng Ng, bà Ngọc đến nhà L ở tại Tiểu khu X, thị trấn TC, huyện TC. Tại nhà L, L đã nói với bà Ng và T là sắp có chỉ tiêu y tế học đường tại địa bàn huyện TC, nếu xin được việc thì T phải đưa cho L số tiền 120.000.000 đ, Tỉnh và bà Ngọc đồng ý. Tỉnh đã đưa cho L 02 bộ hồ sơ cùng số tiền 10.000.000 đ đặt cọc. Khoảng 3 tuần sau, L gọi điện thoại cho Tỉnh nói là có chỉ tiêu và bảo Tỉnh mang số tiền như đã thỏa thuận lên cho L nhưng Tỉnh chỉ chuẩn bị được78.000.000 đ (Bảy mươi tám triệu) giao cho L tại Trạm y tế xã CP, có sự chứng kiến của Ng, rồi L bảo Tỉnh khi nào có quyết định sẽ nhận nốt số tiền còn lại. Tổng cộng số tiền L nhận của Tỉnh là 88.000.000 đ (Tám mươi tám triệu).

Trường hợp thứ hai: Khoảng tháng 7/2014, qua sự giới thiệu của Lò VănNg, ông Lò Văn Đ gặp Th và L tại nhà L để nhờ xin việc cho cháu họ tên là LườngVăn H (cháu họ của ông Đ) vừa tốt nghiệp Trường Cao đẳng y tế Sơn La. Ông Đôi thỏa thuận sẽ đưa cho Th số tiền 120.000.000 đ (Một trăm hai mươi triệu đồng) để Th xin việc cho H làm cán bộ y tế trường học. Th đưa ra thông tin cuối tháng 8/2014 huyện TC sẽ phân bổ chỉ tiêu công tác, nếu không xin được việc Th sẽ hoànlại số tiền trên. Đầu tháng 8/2014, sau khi ông Đôi chuẩn bị được 40.000.000 đ (Bốn mươi triệu), Ng đã gọi điện thoại cho Th, rồi Th và L xuống Trạm y tế xã CP để nhận tiền. Tại đây, Th đã nhận của ông Đ số tiền 40.000.000 đ cùng 02 bộ hồ sơ mang tên Lường Văn H, có sự chứng kiến của L, Ng. Cuối tháng 8/2014, Ng nói với ông Đôi thu xếp số tiền còn lại. Sau đó, Ng dẫn ông Đôi, bà L, bà Ng đến nhà L để giao số tiền 60.000.000 đ (Sáu mươi triệu đồng) với sự có mặt của L và Ng. Tổng cộng số tiền ông Đ đưa tiền cho Th và L là 100.000.000 đ (Một trăm triệu đồng).

Trường hợp thứ ba: Thông qua sự giới thiệu của Lò Văn Ng, bà L đã tintưởng L và Th có khả năng xin được việc làm nên bà L đã 3 lần đưa tiền cho Th với tổng số tiền 160.000.000 đ (Một trăm sáu mươi triệu đồng) để xin việc ho con gái là Lường Thị Hiệp (sinh năm: 1984), trú tại: Bản Nong Sa,  xã CP, huyện TC, tỉnh Sơn La. Cụ thể: Lần thứ nhất vào khoảng tháng 8/2014, Th cùng với L đến Trạm y tế xã CP nhận số tiền 90.000.000 đ (Chín mươi triệu đồng) kèm theo 02 bộ hồ sơ mang tên Lường Thị Hiệp, Th là người trực tiếp nhận tiền từ bà L; Lần thứ hai: khoảng tháng 9/2014, Th tiếp tục đến Trạm y tế xã CP nhận của bà L số tiền 50.000.000 đ (Năm mươi triệu đồng), trong đó: 30.000.000 đ Th dùng để mua 01 chiếc xe máy cho Lò Văn Ng để làm phương tiện đi lại, còn 20.000.000 đ Th tiêu xài cho bản thân; Lần thứ ba: khoảng tháng 11/2014, Th một mình xuống nhận số tiền 20.000.000 đ (Hai mươi triệu đồng) của bà L tại Trạm y tế xã CP, huyện TC, tỉnh Sơn La.

Sau khi nhận được 06 bộ hồ sơ xin việc (mỗi người 02 bộ) mang tên Lò Văn T, Lường Văn H, Lường Thị H, L và Th mang hồ sơ về nhà cất giữ và không mang đi đâu để xin chạy việc như đã thỏa thuận, hứa hẹn mà sử dụng, tiêu xài vào mục đích cá nhân khác. Do thời gian chờ đợi lâu, không thấy L, Th, Ng xin việc làm cho con cháu của mình nên ông Lò Văn Đ, bà Cà Thị L, anh Lò Văn T đã nhiều lần tìm gặp, liên lạc để đòi lại toàn bộ số tiền trên nhưng L, Th, Ng thường tìm cách trốn tránh, quanh co, không chịu trả. Do đó, ông Đ, bà L, anh T đã viết Đơn tố cáo gửi Cơ quan CSĐT Công an huyện TC để điều tra làm rõ hành vi của L, Th, Ng như đã nêu trên. (BL 56 – 82, 125 – 145, 152 – 174, 223 – 226, hồ sơ).

Tại phiên tòa, lời khai, lời trình bày ý kiến của các bị cáo phù hợp với nội dung bản cáo trạng và các tài liệu khác trong hồ sơ vụ án như: biên bản hỏi cung bị can; biên bản khám xét, biên bản bắt người, lời khai của những người bị hại, biên bản thỏa thuận bồi thường, …..

Bản cáo trạng số 174/KSĐT ngày 22/11/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TC, tỉnh Sơn La đề nghị truy tố bị can Nguyễn Thị Ngọc L, Lương Thị Th, Lò Văn Ng về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 139 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TC giữ quyền công tố luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo Nguyễn Thị Ngọc L, Lương Thị Th, Lò Văn Ng về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thị Ngọc L, Lương Thị Th, Lò Văn Ng phạm tội: Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 139, điểm b,p khoản 1,2 Điều 46; Điều 47; khoản 1,2,3 Điều 60 Bộ luật hình sự 1999; đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Ngọc L 36 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 60 (sáu mươi) tháng, thời hạn thử thách tình từ ngày tuyên án sơ thẩm là ngày 04-01-2018.

Áp dụng khoản 4 Điều 328 BLTTHS năm 2015 tuyên trả tự do tại phiên tòa cho bị cáo Nguyễn Thị Ngọc L đang bị tạm giam nếu không bị tạm giam về một tội phạm khác.

Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 139, điểm b,p khoản 1,2 Điều 46; Điều 47;khoản 1,2,3 Điều 60; Điều 53 Bộ luật hình sự 1999 đề nghị xử phạt bị cáo Lương Thị Th 33 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 60 (sáu mươi) tháng, thời hạn thử thách tình từ ngày tuyên án sơ thẩm là ngày 04-01-2018.

Giao các bị cáo Nguyễn Thị Ngọc L, Lương Thị Th cho UBND thị trấn TC, huyện TC giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình các bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND thị trấn TC giám sát, giáo dục các bị cáo trong thời gian thử thách. Trường hợp các bị cáo thay đổi nơi cư trú thực hiện theo Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 139, điểm b,p khoản 1,2 Điều 46; khoản 1,2,3Điều 60; Điều 47; Điều 53 Bộ luật hình sự 1999 đề nghị xử phạt bị cáo Lò Văn Ng mức án 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 60 (sáu mươi) tháng, thời hạn thử thách tình từ ngày tuyên án sơ thẩm là ngày 04-01-2018

Giao bị cáo Lò Văn Ng cho UBND xã TC, huyện TC giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND thị trấn TC giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thực hiện theo Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với các bị cáo theo khoản 1,2 Điều 30; khoản 3 Điều 60; khoản 5 Điều 139 BLHS.

Về dân sự: Chấp nhận việc các bị cáo và những người bị hại đã thỏa thuận về việc bồi thường thiệt hại.

Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, mỗi bị cáo là 200.000 đồng.

Lời nói sau cùng của các bị cáo Nguyễn Thị Ngọc L, Lương Thị Th, Lò Văn Ng: Nhất trí với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát đề nghị truy tố, xét xử các bị cáo về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Nay các bị cáo đã thực sự nhận ra lỗi lầm, các bị cáo rất ân hận, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, các bị cáo xin Hội đồng xét xử cho hưởng án treo và miễn hình phạt bổ sung.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện TC Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện TC, Kiểm sát viên: Hành vi phạm tội của bị cáo xảy ra năm 2014 nên các cơ quan tiến hành tố tụng đã áp dụng Bộ luật hình sự năm 1999 trong quá trình điều tra, truy tố là đúng quy định của pháp luât; đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Đối việc xét xử của Tòa án, hiện nay Bộ luật hình sự sửa đổi năm 2015 và Bộ luật tố tụng hình sự 2015 đã có hiệu lực pháp luật. Nhưng hành vi phạm tội của bị cáo xảy ra trước thời điểm BLHS sửa đổi năm 2015 có hiệu lực pháp luật nên Hội đồng xét xử sẽ áp dụng Bộ luật hình sự 1999 và Bộ luật tố tụng hình sự 2015 để xét xử đối với các bị cáo.

[ 2] Xét hành vi của các bị cáo Nguyễn Thị Ngọc L, Lương Thị Th, Lò Văn Ng là vi phạm pháp luật bởi: các bị cáo đã đưa thông tin gian dối là các bị cáo có khả năng xin việc nên những người bị hại Lò Văn Đ, Cà Thị L, Lò Văn T, Lò Thị Ngọc mới tin tưởng và giao cho các bị cáo tổng số tiền là 348.000.000 đồng (ba trăm bốn mươi tám triệu đồng). Cụ thể:

Bị cáo L đã nhận trực tiếp số tiền 88.000.000 đồng (tám mươi tám triệu đồng) từ bà Lò Thị Ng và anh Lò Văn T thông qua sự giới thiệu của bị cáo Ng và bị cáo Th.

Bị cáo L nhận số tiền 160.000.000 đồng (một trăm sáu mươi triệu đồng) của bà Cà Thị L thông qua bị cáo Th. Bị cáo Th nhận lại từ bị cáo Ng. Bị cáo Ng nhận trực tiếp từ bà Cà Thị L.

Bị cáo L nhận số tiền 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng) của ông Lò Văn Đthông qua bị cáo Th. Bị cáo Th nhận trực tiếp từ ông Đôi thông qua sự giới thiệu của bị cáo Ng.

Sau khi chiếm đoạt được số tiền 348.000.000 đồng (ba trăm bốn mươi tám triệu đồng, các bị cáo đã sử dụng vào mục đích cá nhân. Như vậy, hành vi của các bị cáo đã phạm vào tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo điểm a khoản 3 Điều 139 Bộ luật hình sự như quan điểm truy tố và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhândân huyện TC.

Tại điểm a khoản 3 Điều 139 BLHS quy định:

1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”.

“3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng”.

[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội bởi hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật và Nhà nước bảo vệ, gây mất trật tự an toàn xã hội của địa phương, gây tâm lý lo lắng trong quần chúng nhân dân. Do đó cần áp dụng điểm a khoản 3 Điều 139 BLHS có mức hình phạt từ 07 năm 15 năm đối với các bị cáo.

[4] Xét vị trí vai trò của các đồng phạm thấy: Các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn bởi các bị cáo đều là người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên bị cáo L và bị cáo Th là người trực tiếp nhận và sử dụng số tiền đã chiếm đoạt được; bị cáo Ng chỉ là người môi giới và nhận tiền của những người bị hại và giao lại cho bị cáo Th, L không được sử dụng nên bị cáo L, Th cần có mức hình phạt nghiêm khắc hơn so với bị cáo Ng.

[5] Xét nhân thân các bị cáo là người chưa có tiền án, tiền sự, có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Các bị cáo biết rõ việc đưa ra thông tin gian dối khiến người khác tin và đưa tài sản cho mình để chiếm đoạt là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy cần lên một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo mới đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm.

[6] Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Đối với bị cáo Nguyễn Thị Ngọc L: trong quá trình điều tra và tại phiên tòa đã ăn năn hối cải và thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình; đã tích cực thuyết phục gia đình bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b,p khoản 1 Điều 46 BLHS 1999. Bị cáo là phụ nữ, hiện đang là lao động duy nhất, chồng đã ly hôn, nuôi 02 con nhỏ (lớn nhất16 tuổi, nhỏ nhất 8 tuổi); những người bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo; bị cáo có mẹ là bà Đoàn Thanh Lê được tặng Huy chương vì sựnghiệp xây dựng tổ chức Công đoàn và 02 lần được Ban chấp hành Liên đoàn lao động tỉnh Sơn La tặng bằng khen; bị cáo phạm tội một phần do lỗi của người bị hại là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại khoản 2 Điều 46 BLHS 1999.

Đối với bị cáo Lương Thị Th: trong quá trình điều tra và tại phiên tòa đã ăn năn hối cải và thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình; đã tích cực thuyết phục gia đình bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b,p khoản 1 Điều 46 BLHS 1999. Bị cáo là phụ nữ, hiện đang là lao động duy nhất, chồng đã ly hôn, nuôi 02 con nhỏ (lớn nhất16 tuổi, nhỏ nhất 8 tuổi); những người bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hìnhsự cho các bị cáo; bị cáo có bố đẻ là ông Lương Định Thắng được tặng thưởng huy chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng nhì; bị cáo phạm tội một phần do lỗi của người bị hại là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại khoản 2 Điều 46 BLHS 1999.

Đối với bị cáo Lò Văn Ng: trong quá trình điều tra và tại phiên tòa đã ăn năn hối cải và thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình; đã tích cực thuyết phục gia đình bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b,p khoản 1 Điều 46 BLHS 1999. Những người bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo; bị cáo phạm tội một phần do lỗi của người bị hại là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại khoản 2 Điều 46 BLHS 1999.

[7] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội đối với nhiều người bị hại, số tiền chiếm đoạt được của mỗi người bị hại đều đủ yếu tố cấu thành tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản nên cần áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự phạm tội nhiều lần quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS 1999 đối với các bị cáo.

[8] Xét thấy các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo Th, L có 02 tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 46 BLHS và 04 tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 46 BLHS; bị cáo Ng có 02 tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều46 BLHS và 02 tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 46 BLHS. Không bị cáo nào cótình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 48 BLHS nên cần áp dụng Điều 47 BLHS xử phạt mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt nhưng trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật, mức hình phạt từ 02 năm đến 07 năm tù.

[9] Xét đơn xin hưởng án treo của các bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: đơn xin hưởng án treo của các bị cáo đã có xác nhận, bảo lãnh của gia đình và chính quyền địa phương; có nơi cư trú ổn định; phạm tội lần đầu; ngoài lần phạm tội này luôn chấp hành tốt đường lối chính sách pháp luật của Nhà nước. Do đó không cần cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội, cho các bị cáo được hưởng sự khoan hồng của pháp luật, có cơ hội cải tạo trở thành công dân tốt có ích cho xã hội.

Bị cáo Nguyễn Thị Ngọc L đang bị tạm giam, bị cáo bị xử phạt tù nhưng được hưởng án treo, Hội đồng xét xử tuyên bố trả tự do ngay tại phiên tòa cho bị cáo nếu không bị tạm giam về một tội phạm khác theo khoản 4 Điều 328 BLTTHS năm 2015.

[10] Đối với hình phạt bổ sung: khoản 2,3 Điều 30; khoản 3 Điều 60; khoản 5 Điều 139 BLHS phạt tiền mỗi bị cáo 3.000.000 đồng (ba triệu đồng) ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.

[11] Đối với Lò Xuân Th: bị cáo Nguyễn Thị Ngọc L khai sau khi chiếm đoạt được số tiền 348.000.000 đ đã cho đã cho Thắng vay để đầu tư vào dự án trồng rừng. Cơ quan CSĐT Công an huyện TC đã tiến hành triệu tập Thắng để làm việc, Thắng chỉ thừa nhận việc vay tiền của L khoảng 300.000.000 đ, của Th số tiền 20.000.000 đ và của bà Phạm Thị Th số tiền 25.000.000 đ. Nhưng hiện tại Thắng không có mặt tại nơi cư trú, gia đình và chính quyền địa phương không biết Thắng đi đâu, làm gì nên cơ quan điều tra không triệu tập được bị cáo để mở rộng điều tra, cần chấp nhận.

[12] Về phần trách nhiệm dân sự: Sau khi vụ việc xảy ra, đại diện gia đình của các bị cáo và người bị hại đã tiến hành thỏa thuận bồi thường, khắc phục hậu quả cụ thể: Mỗi bị cáo bồi thường số tiền là 116.000.000 đ (Một trăm mười sáu triệu đồng), tổng cộng: 348.000.000 đ (Ba trăm bốn mươi tám triệu đồng); các bị hại ông Lò Văn Đ, bà Cà Thị L, bà Lò Thị N và anh Lò Văn T đã nhận đầy đủ số tiền đã bị mất và không có yêu cầu gì thêm. Xét thỏa thuận của các bên là hoàn toàn tự nguyện, không trái đạo đức xã hội và không vi phạm pháp luật, cần áp dụng Điều42 BLHS; Điều 584, 585, 587, 589 BLDS chấp nhận thỏa thuận của các bên.

[13] Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, mỗi bị cáo là 200.000 đồng theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày  30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

1.  Về tội danh:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thị Ngọc L, Lương Thị Th, Lò Văn Ng phạm tội: Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

2. Về hình phạt:

Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 139, điểm b,p khoản 1,2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 47; khoản 1,2 Điều 60 Bộ luật hình sự 1999 xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Ngọc L 36 (ba mươi sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 60 (sáu mươi) tháng, thời hạn thử thách tình từ ngày tuyên án sơ thẩm là ngày 04-01-2018.

Áp dụng khoản 4 Điều 328 BLTTHS năm 2015 tuyên trả tự do tại phiên tòa cho bị cáo Nguyễn Thị Ngọc L đang bị tạm giam nếu không bị tạm giam về một tội phạm khác.

Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 139; điểm b,p khoản 1,2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 47; khoản 1,2 Điều 60; Điều 53 Bộ luật hình sự 1999 xử phạt bị cáo Lương Thị Th 33 (ba mươi ba) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 60 (sáu mươi) tháng, thời hạn thử thách tình từ ngày tuyên án sơ thẩm là ngày 04-01-2018.

Giao các bị cáo Nguyễn Thị Ngọc L, Lương Thị Th cho UBND thị trấn TC, huyện TC giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình các bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND thị trấn TC giám sát, giáo dục các bị cáo trong thời gian thử thách. Trường hợp các bị cáo thay đổi nơi cư trú thực hiện theo Điều 69Luật thi hành án hình sự.

Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 139; điểm b,p khoản 1,2 Điều 46; khoản 1,2Điều 60; điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 47; Điều 53 Bộ luật hình sự 1999 đề nghị xử phạt bị cáo Lò Văn Ng 30 (ba mươi) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 60 (sáu mươi) tháng, thời hạn thử thách tình từ ngày tuyên án sơ thẩm là ngày 04-01-2018.

Giao bị cáo Lò Văn Ng cho UBND xã TC, huyện TC giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND xã TC giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thực hiện theo Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

Đối với hình phạt bổ sung: áp dụng khoản 2 Điều 30; khoản 3 Điều 60; khoản 5 Điều 139 BLHS phạt tiền mỗi bị cáo 3.000.000 đồng (ba triệu đồng) ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.

3. Về dân sự: Áp dụng Điều 42 BLHS; Điều 584, 585, 587, 589 BLDS 2015 chấp nhận việc các bị cáo và những người bị hại đã thỏa thuận về việc bồi thường thiệt hại. Cụ thể mỗi bị cáo bồi thường số tiền là 116.000.000 đồng (một trăm mười sáu triệu đồng). Những người bị hại đã nhận đủ số tiền bị mất là: anh Lò Văn Đđã nhận được 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng); bà Cà Thị L đã nhận được 160.000.000 đồng (một trăm sáu mươi triệu đồng); bà Lò Thị Ngọc và anh Lò Văn T đã nhận được 88.000.000 đồng (tám mươi tám triệu đồng)

4. Án phí:

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; điểm a khoản 1Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày  30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, mỗi bị cáo là 200.000 đồng.

5. Quyền kháng cáo

Áp dụng Điều 331, 333 BLTTHS năm 2015 báo cho các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; Những người bị hại cóquyền kháng cáo về phần bồi thường thiệt hại trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hợp lệ./.

Luật sư bào chữa – Văn phòng luật sư Dragon

Xếp hạng
5/5

Chia sẻ

Share on facebook
Share on twitter
Share on linkedin
Share on pinterest
Share on tumblr

Tư vấn trực tuyến

Bài viết liên quan

Giải đáp thắc mắc

Tội huỷ hoại tài sản nhà nước

Tội hủy hoại tài sản nhà nước được quy định cụ thể trong Bộ luật Hình sự và có thể bị xử lý nghiêm theo pháp luật. Dưới đây là một số thông tin chung về tội hủy hoại tài sản: Định nghĩa: Tội hủy hoại tài sản là hành

Xem chi tiết »

Thời hạn tạm giam trong vụ án hình sự?

Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, thời hạn tạm giam bị can để điều tra không quá: 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng. 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng. 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội

Xem chi tiết »

Làm gì khi bị lừa đảo qua mạng

Luật sư tư vấn khi bị lừa đảo quan mạng, bạn cần bình tĩnh và thực hiện các bước sau: Dừng ngay việc gửi tiền hoặc thực hiện bất kỳ hành động nào khác theo yêu cầu của kẻ lừa đảo. Chặn tất cả các liên lạc từ kẻ lừa

Xem chi tiết »

ĐOÀN LUẬT SƯ HÀ NỘI

CÔNG TY LUẬT DRAGON

Giám đốc – Thạc sĩ Luật sư:  Nguyễn Minh Long

Công ty luật chuyên:

Hình sự – Thu hồi nợ – Doanh nghiệp – Đất Đai – Trọng tài thương mại – Hôn nhân và Gia đình.

  • Văn phòng luật sư quận Cầu Giấy:  Phòng 6 tầng 14 tòa nhà VIMECO đường Phạm Hùng, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
  • Văn phòng luật sư quận Long Biên: Số 24 ngõ 29 Phố Trạm, Phường Long Biên, Quận Long Biên, Hà Nội
  • Điện thoại: 1900 599 979 / 098.301.9109Email: dragonlawfirm@gmail.com

Hệ thống Website:

#luatsubaochua, #luatsutranhtung, #luatsuhinhsu, #luatsugioibaochua, #luatsubaochuahanoi, #luatsubaochuahaiphong

Điều luật tham khảo

Văn bản luật

Thủ tục liên quan đến thuê luật sư

Chi phí thuê luật sư bào chữa vụ án hình sự

Luật hình sự là quan hệ xã hội phát sinh giữa Nhà nước và người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội khi các chủ thể này thực hiện tội phạm. Theo quy định tại Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, những người có quyền nhờ luật sư bào chữa bao gồm:

  • Người bị bắt.
  • Người bị tạm giữ.
  • Bị can.
  • Bị cáo.
  • Bị hại.
  • Nguyên đơn dân sự.
  • Bị đơn dân sự.
  • Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.

Ngoài những đối tượng trên, theo quy định tại Điều 27 Luật Hình sự năm 2012, người đại diện hoặc người thân thích của người bị buộc tội cũng có quyền được nhờ luật sư bào chữa cho người bị buộc tội.

Quá trình tố tụng bắt đầu từ giai đoạn điều tra – truy tố – xét xử – thi hành án. Bất kể một cá nhân, đại diện, tổ chức nào ngay khi nhận được giấy mời, giấy triệu tập của cơ quan điều tra hoặc tại bất kỳ thời điểm nào trong quá trình tố tụng nêu trên đều có quyền và cần thiết phải nhờ sự hỗ trợ của luật sư.

Tuy nhiên, vì quá trình tố tụng kéo dài đói hỏi người bảo vệ quyền lợi cho thân chủ phải là người đồng hành cùng thân chủ trong xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự. Do đó, thời điểm tốt nhất để có thể nhờ luật sư bào chữa là ngay khi nhận được giấy triệu tập từ cơ quan điều tra. Vì, khi đó, luật sư có thể can thiệp pháp lý và bảo vệ cho thân chủ ngay từ giai đoạn đầu tiên.

Luật sư hình sự sẽ giúp ích gì cho bạn?

Luật sư hình sự tham gia vào vụ án hình sự trong suốt quá trình tố tụng từ sơ thẩm đến phúc thẩm hoặc có thể trong giai đoạn tái phẩm hoặc giám đốc thẩm với vai trò là người được nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự ủy quyền tham gia vụ án hoặc là người bảo vệ quyền và lợi ích cho thân chủ.

Tham gia vào ngay từ giai đoạn xác minh ban đầu, khi có giấy triệu tập và trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, luật sư hình sự có những nhiệm vụ sau:

  • Nghiên cứu, xác minh, thu thập chứng cứ theo quy định pháp luật để bảo vệ thân chủ. Đây là một trong những quyền và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 73 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
  • Đóng vai trò là người bảo vệ cho thân chủ tại những phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Giúp phiên tòa có cái nhìn khách quan hơn về động cơ, hoàn cảnh của thân chủ.
  • Luật sư hình sự là người am hiểu pháp luật, vận dụng những kỹ năng của một người luật sư, linh hoạt, mềm dẻo trong quá trình làm việc với cơ quan điều tra, cơ quan tiến hành tố tụng, giúp bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho thân chủ của mình.
  • Luật sư hình sự sẽ là người tư vấn đưa ra những giải pháp tốt nhất, đảm bảo đúng quy định pháp luật cho thân chủ của mình.

Vì sao bị can/bi cáo nên nhờ/thuê luật sư hình sự ngay từ ban đầu?

  • Từ khi bị triệu tập, nghi vấn phạm tội: có thể thuê luật sư ngay từ đầu để bảo vệ quyền lợi, có thể bị hình sự hóa trong quan hệ hình sự trong quá trình điều tra xét xử.
  • Giai đoạn tạm giam điều tra: Luật sư tiếp xúc trực tiếp với bị can/thân chủ hỏi cung, đối chất, đề xuất, kiến nghị tới cơ quan tiến hành tố tụng, yêu cầu họ thực hiện đúng quy định pháp luật để bảo cho thân chủ.
  • Tham gia bảo vệ (bào chữa) cho thân chủ tại những phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Giúp phiên tòa có cái nhìn khách quan hơn về động cơ, hoàn cảnh của thân chủ.
  • Luật sư hình sự là người am hiểu pháp luật, vận dụng những kỹ năng của một người luật sư, linh hoạt, mềm dẻo trong quá trình làm việc với cơ quan điều tra, cơ quan tiến hành tố tụng, tranh tụng giúp bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho thân chủ của mình.
  • Luật sư hình sự sẽ là người tư vấn đưa ra những giải pháp tốt nhất, đảm bảo đúng quy định pháp luật cho thân chủ của mình.

Đối với người bị hại thì Luật sư hình sự sẽ giúp ích những gì?

  • Luật sư thu thập chứng cứ
  • Tư vấn pháp luật hình sự cho người bị hại hiểu được hành vi của bi can/bị cáo biết được tội danh mà cơ quan điều tra khởi tố với người phạm tội đã đúng hay chưa
  • Giúp cho người bị hại soạn thảo các đơn từ kiến nghị để việc khởi tố/truy tố đối với bị can gây ra thương tích, gây ra thiệt hại cho người bị hại là “đúng người đúng tội”
  • Vấn đề về bồi thường: Luật sư tư vấn soạn thảo tính toán mức bồi thường để đưa ra yêu cầu xém xét bồi thường.

Tiêu chí để lựa chọn dịch vụ luật sư hình sự là gì?

Thông thường, mọi người có xu hướng lựa chọn luật sư thông qua quen biết vì cho rằng luật sư thông qua quen biết sẽ có độ tín nhiệm cao hơn hoặc là và có thể “nhờ vả” được. vậy đây có phải là một tiêu chí để lựa chọn luật sư?

Theo quy định tại quy tắc số 5 Quyết định số 201/QĐ-HĐLSTQ của liên đoàn luật sư Việt Nam về quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam thì một trong những quy tắc hành nghề chính là bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng, đây là một trong những quy tắc mà bất kì luật sư nào cũng thuộc nằm lòng.

Hơn nữa, hiện nay cuộc cách mạng cải cách tư pháp đã loại bỏ rất nhiều tiêu cực trong hoạt động tố tụng, quá trình xét xử, theo thông tư liên tịch số 03/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP quá trình xét xử phải được ghi âm ghi hình đảm bảo sự minh bạch rõ ràng tránh những hoạt động, hành vi tiêu cực trong xét xử.

Bất kỳ luật sư nào cũng có nghĩa vụ bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích cho thân chủ của mình, và quy trình hoạt động tố tụng cũng đã được quy định chặt chẽ hơn, các hoạt động tiêu cực cũng từ đó bị triệt tiêu dần. Do đó, yếu tố người thân người quen không phải là một trong những yếu tố, tiêu chí để lựa chọn luật sư, mà tiêu chí để lựa chọn luật sư bao gồm những tiêu chí sau:

  • Luật sư có chuyên môn trong lĩnh vực hình sự, đây là một yếu tố quan trọng của một luật sư hình sự vì phải hiểu rõ lý luận pháp luật, cập nhật thường xuyên những thay đổi của pháp luật, am hiểu cơ chế hoạt động điều tra thì mới có thể bảo vệ tốt cho thân chủ của mình.
  • Luật sư có kinh nghiệm trong hoạt động tố tụng hình sự, trong thực tiễn và tham gia tố tụng trong nhiều vụ án vì càng tham gia nhiều vụ án thì càng tích lũy được nhiều bản lĩnh, kinh nghiệm thâm niên lâu có thể giải quyết được không chỉ những vấn đề pháp luật mà vấn đề quan hệ với các cơ quan tố tụng, cơ quan điều tra.
  • Thấu hiểu hoàn cảnh, động cơ, lý do, hoàn cảnh của thân chủ ví dụ như: do hoàn cảnh khó khăn, do nền tảng gia đình không tốt, do rơi vào tình thế bắt buộc, … từ đó mới xây dựng được phương án, cung cấp dịch vụ tốt nhất cho thân chủ.
  • Chi phí dịch vụ luật sư, tùy vào từng trường hợp, vụ việc cụ thể chi phí luật sư sẽ khác nhau, có những vụ án có tính chất phức tạp, thì ngoài chi phí luật sư còn nhiều chi phí khác như chi phí giám định thương tích thương tật, giám định tự thi, chi phí dựng hiện trường, … Do đó, Tùy vào từng vụ việc cụ thể và hoàn cảnh của thân chủ để đưa ra mức phí phù hợp.

Phí dịch vụ luật sư hình sự được tính như thế nào?

Một trong những nguyên tắc hành nghề luật sư phải thông báo rõ ràng mức thù lao, chi phí cho khách hàng, tuy nhiên, vì tính chất nhạy cảm của vụ án hình sự, chi phí dịch vụ hình sự không giống như các chi phí dịch vụ luật sư khác, không có mức phí cố định, rõ ràng.

Như đã đề cập ở trên, tùy vào từng trường hợp cụ thể của vụ việc mà phí dịch vụ luật sư sẽ khác nhau. Chi phí luật sư trong vụ án hình sự rất phức tạp, tùy vào từng sự việc, luật sư đưa ra mức chi phí cụ thể, do đó, quý khách hàng cần phải gặp trực tiếp với luật sư của công ty luật để có thể trao đổi và đánh giá tính phức tạp của vụ việc mới có thể đưa ra được mức phí phù hợp

Ngoài chi phí dịch vụ luật sư, còn có những khoản phí riêng khác, không nằm trong chi phí dịch vụ luật sư như:

  • Chi phí giám định thương tật
  • Chi phí cho người làm chứng
  • Chi phí bồi thường dân sự

Có cam kết kết quả trong vụ án hình sự không?

Công ty luật Dragon của chúng tôi đảm bảo thực hiện công việc theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định và đảm bảo tuân thủ đúng 27 quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam theo quy định tại Quyết định số 201/QĐ-HĐLSTQ ngày 13/12/2019 của Hội Đồng luật sư toàn quốc.

Công ty chúng tôi luôn đặt quyền lợi khách hàng lên đầu, cam kết giữ bí mật những thông tin liên quan đến khách hàng, đem những hiểu biết, kinh nghiệm trong hoạt động tố tụng hình sự, sự tận tâm, nhiệt tình của mình đến cho khách hàng.

Trên đây là toàn bộ nội dung bài giới thiệu dịch vụ luật sư hình sự và hướng dẫn cách chọn luật sư hình sự. Quý khách hàng nếu có nhu cầu sử dụng dịch vụ luật sư hình sự của công ty chúng tôi hoặc có thắc mắc về chính sách dịch vụ luật sư của công ty vui lòng liên hệ hotline 098.301.9109 để được tư vấn và hỗ trợ kịp thời.

Luật Dragon nhận hỗ trợ “tư vấn” trực tuyến 24/24 qua các hình thức như sau:

  • Tư vấn pháp luật qua EMAIL: congtyluatdragon@gmail.com
  • Tư vấn pháp luật qua FACEBOOK: Fanpage Luật Dragon
  • CÔNG TY LUẬT DRAGON

    LUÔN ĐỒNG HÀNH CÙNG QUÝ KHÁCH!

    TRỤ SỞ CHÍNH CÔNG TY LUẬT DRAGON:

    Add: Phòng 14.6, Tòa nhà Vimeco, Lô 9E, Đường Phạm Hùng, Quận Cầu Giấy, Hà Nội.

    Tel: 1900. 599. 979

    VĂN PHÒNG ĐẠI DIỆN LUẬT SƯ TẠI QUẬN LONG BIÊN:

    Add: Số 24 ngách 29 Phố Trạm phường Long Biên, quận Long Biên, thành phố Hà Nội

    Tel : 1900. 599. 979

    VĂN PHÒNG LUẬT SƯ TẠI HẢI PHÒNG:

    Add: Số 102, Lô 14 đường Lê Hồng Phong, Phường Đằng Lâm,Quận Hải An, Hải Phòng.

    Tel : 1900. 599. 979

    VĂN PHÒNG LUẬT SƯ TẠI TP HCM:

    Tel : 1900. 599. 979

    =====================

    BAN GIÁM ĐỐC CÔNG TY LUẬT DRAGON:

    Luật Sư Nguyễn Minh Long

    Điện Thoại: 098.301.9109

    Email: dragonlawfirm@gmail.com

Quy trình giải quyết vụ án hình sự

Từ khóa: thuê luật sư vụ án hình sự,Giá thuê luật sư,Chi phí thuê luật sư vụ án hình sự,Có nên thuê luật sư,Chi phí thuê luật sư có được bồi thường,Hợp đồng thuê luật sư,Chi phí thuê luật sư bào chữa, chi phí thuê luật sư bào chữa

Luật sư bào chữa giỏi tại Hải Phòng

Xã hội càng phát triển, nghề luật sư càng có vai trò quan trọng. Hằng ngày, nhiều tranh chấp, kiện tụng phát sinh và luật sư phải đứng ra tranh đấu để bảo vệ lẽ phải, công lý.

Bảo vệ lẽ phải

Luật sư Nguyễn Minh Long ở Văn phòng luật sư Dragon (Chi nhánh Hải Phòng) đã có gần 10 năm gắn bó với nghề. Giống như nhiều đồng nghiệp khác, công việc trong ngày của anh khá bận rộn và luôn phải di chuyển. Từ việc xếp lịch gặp khách hàng, lịch làm việc tại tòa án, đi thu thập chứng cứ… đều được anh thực hiện một cách cẩn trọng. Nhiều khi các luật sư còn trở thành chuyên gia tâm lý giúp thân chủ và người nhà yên tâm, tin tưởng vào lẽ phải.

Luật sư Long cho biết: “Nhiệm vụ của chúng tôi là bảo vệ công lý và lẽ phải. Vì vậy, mỗi vụ việc đều phải được tìm hiểu một cách kỹ lưỡng, chính xác, mất nhiều thời gian, công sức. Chỉ cần một sai sót cũng có thể dẫn đến những hậu quả khó lường”.

Giữ tâm trong sáng

Luật sư Long chia sẻ, hơn 10 năm gần đây, xã hội, con người có nhiều thay đổi, phát sinh nhiều mâu thuẫn phức tạp. Các vụ án liên quan đến kinh tế, hình sự, tranh chấp đất đai, hôn nhân – gia đình xảy ra nhiều hơn, phức tạp hơn. Vì thế, công việc của giới luật sư cũng vất vả gấp nhiều lần. Tuy nhiên, anh quan niệm phải luôn giữ tâm trong sáng để mỗi vụ việc đều được xử lý chính xác, theo đúng pháp luật. Nhiều lúc, các luật sư còn trở thành chuyên gia tư vấn  miễn phí.

Năm 2012, luật sư Long nhận tư vấn thủ tục ly hôn cho một phụ nữ ngoài 50 tuổi ở Quận Hồng Bàng. Do người chồng làm thợ xây nên hay đi nhiều nơi, có quan hệ phức tạp, về nhà thường chửi mắng vợ con. Không chịu nổi tình cảnh này, người vợ quyết định ly hôn. Qua tiếp xúc và tìm hiểu câu chuyện, anh Phán nhận thấy vẫn có cơ hội cứu vãn cuộc hôn nhân này. Bằng vốn kinh nghiệm qua từng vụ án và đời sống thường ngày, anh phân tích, giảng giải để người phụ nữ kia hiểu được điều hơn, thiệt. Lúc đầu, người phụ nữ này không nghe mà cương quyết đưa chồng ra tòa. Tuy nhiên, sau nhiều lần tiếp xúc, động viên, phân giải, họ đã chữa lành được vết thương, bỏ qua những lỗi lầm để hàn gắn trở lại.

Một số người vẫn hay nghĩ luật sư là nghề có nhiều quan hệ, kiếm được nhiều tiền nhưng thực tế những khó khăn, vất vả chỉ có người trong nghề mới hiểu hết. Để có thể trở thành một luật sư phải trải qua một thời gian dài học tập và đào tạo. Theo quy định, ngoài tấm bằng cử nhân, luật sư phải qua lớp đào tạo kỹ năng hành nghề luật sư, thời gian tập sự và thi qua kỳ thi kết thúc tập sự. Thời gian này tối thiểu là 6 năm hoặc có thể kéo dài hơn. Có người theo đuổi cả chục năm mới trở thành một luật sư.

Luật sư Long cho biết: “Công việc vất vả lắm nhưng thu nhập của anh em luật sư cũng chỉ đủ sống. Nhiều khi gặp trường hợp khó khăn, người cao tuổi, gia đình chính sách, chúng tôi chỉ làm giúp chứ không nhận phí. Gặp người tốt, sau khi tư vấn hay hoàn tất vụ việc thì họ đến có lời cảm ơn. Nhưng cũng có trường hợp mình thấy vấn đề của họ khiếu nại là sai, phân tích để nhận ra lẽ phải thì họ phản ứng ra mặt, thậm chí còn có những lời nói không đúng mực. Dù vậy, chúng tôi vẫn luôn giữ vững cái tâm với nghề”.

Công việc vất vả nên không phải ai cũng gắn bó được với nghề. Vì thế, người trẻ thường ít chọn học luật và đầu tư thời gian, chất xám để trở thành luật sư. Hiện nay, Hải Phòng có hơn 100 luật sư đang hành nghề, trong đó có khoảng 30 người là người cao tuổi, đã nghỉ hưu. Chỉ có tình yêu nghề mới giúp họ gắn bó với nghề luật sư trong thời gian dài. Mặc dù khó khăn là thế nhưng các luật sư như anh Long  luôn tin rằng nghề luật sư sẽ có triển vọng trong tương lai vì góp phần bảo đảm công bằng xã hội.

Văn phòng luật sư Dragon Hải Phòng

Khi nào cần thuê luật sư bào chữa

Thuê luật sư là việc người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị buộc tội, bị can, bị cáo và người thân thích của họ là cha, mẹ, vợ, con, ông, bà… thuê luật sư bào chữa cho trường hợp của gia đình nhà mình

Vai trò của Luật sư, luật sư tham gia vụ án hình sự với vai trò là người bào chữa, khi thực hiện bào chữa cho người bị buộc tội, người bị tạm giữ, người bị tạm giam, bị can, bị cáo trong tất cả các giai đoạn từ Điều tra vụ án, khởi tố vụ án, Truy tố vụ án và xét xử vụ án, luật sư sẽ thực hiện các quyền bào chữa để bảo chữa cho các bị can, bị cáo.

Thuê luật sư bào chữa cho người bị bắt là trường hợp người bị tình nghi hay còn gọi là nghi can có thể bị bắt quả tang hoặc bị tạm giữ song bắt hoặc bị mời về làm việc tại trụ sở cơ quan điều tra song bắt, trong tường hợp này người bị bắt có quyền thuê luật sư để bào chữa cho mình. Việc luật sư tham gia bào chữa từ giai đoạn này là hết sức cần thiết vì tham gia ngay từ ban đầu sẽ bảo đảm được quyền của người bị bắt cũng như làm sáng tỏ các sự kiện khách quan của vụ án

Thuê luật sư bảo chữa cho bị can khi phạm tội Khi một ai đó có hành vi phạm tội đã bị cơ quan Cảnh sát điều tra, cơ quan Công an khởi tố vụ án và khởi tố bị can, lúc đó người bị khởi tố trở thành bị can và có quyền mời luật sư bào chữa cho mình để tham gia vào vụ án. Luật sư khi tham gia bào chữa cho bị can sẽ giúp đỡ bị can về mặt pháp luật, sử dụng các biện pháp cần thiết và hợp pháp để bảo vệ bị can. Quá trình bào chữa của luật sư cho bị can từ khi bị mời lên làm việc, khi bị khởi tố tại cơ quan Điều tra, khi bị Viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền truy tố bị can bằng Bản cáo trạng và cho đến khi Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử. nói như vậy không có nghĩa là luật sư sẽ chấm dứt tư cách bào chữa cho bị can mà tư cách của bị can được chuyển sang thành tư cách Bị cáo.

Thuê luật sư bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa: Khi một bị can hay người bị buộc tội bị Tòa án nhân dân có thẩm quyền có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì lúc đó được chuyển sang một tư cách mới là tư cách bị cáo, Luật sư người bào chữa tiếp tục bào chữa cho bị cáo trong toàn bộ quá trình xét xử vụ án ở giai đoạn sơ thẩm hoặc phúc thẩm nếu bị cáo có kháng cáo và tiếp tục mời luật sư bào chữa cho mình. Luật sư bào chữa cho bị cáo có những quyền và nghĩa vụ nhất định, tư vấn và hỗ trợ pháp lý cũng như trao đổi với bị cáo để sao cho bào chữa cho bị cáo được tốt nhất.

Thuê luật sư tham gia vụ án hình sự là trường hợp đã xác định một vụ án hình sự, vụ án có thể hình thành từ giai đoạn khởi tố vụ án, khởi tố bị can và tiến hành điều tra hoặc có thể vụ án đã được Viện kiểm sát có thẩm quyền tiến hành xem xét truy tố ra tòa án và cũng có thể vụ án đã được tòa án chuẩn bị đưa ra xét xử sơ thẩm hoặc xét xử phúc thẩm. Luật sư tham gia vào vụ án hình sự sẽ thực hiện các nhiệm vụ quyền hạn của người bào chữa để nghiên cứu hồ sơ và bào chữa cho người được bào chữa.

Thuê luật sư bảo vệ cho người bị hại trong vụ án hình sự: Trong vụ án hình sự liên quan đến thiệt hại luật sư sẽ tham gia bảo vệ quyền và lợi ích của người bị hại, tham gia và các giai đoạn tố tụng tại Cơ quan Điều tra, Công an, Viện Kiểm sát và Tòa án; sao chụp hồ sơ tài liệu, thu thập chứng cứ và đưa ra cũng như bảo vệ các yêu cầu về bồi thường thiệt hịa cho người bị hại. Trong quá trình tranh tụ tại Tòa án, Luật sư sẽ phát biểu quản điểm luận tội đối với các bị cáo đã gây ra cho bị hại; nếu vụ án cần phải kháng cáo luật sư sẽ giúp bị hại thực hiện việc kháng cáo bản án theo quy định.

Thuê luật sư bào chữa cho người chưa thành niên, người chưa thành niên khi phạm tội là người dưới 18 tuổi, theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự thì đây là những người đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (14 tuổi) nhưng chưa thành niên (dưới 18 tuổi) khi phạm tội thì bắt buộc phải có luật sư. Thông thường bố mẹ hoặc người đại diện hợp pháp hay người giám hộ sẽ thuê luật sư bào chữa. Trường hợp không thể có điều kiện thuê luật sư thì cơ quan tiến hành tố tụng sẽ yêu cầu Đoàn luật sư chỉ định luật sư bào chữa. Đây là quyền cơ bản của người dưới thành niên để có thể bào chữa cho hộ được tốt nhất.

Luật sư bào chữa để trả hồ sơ điều tra bổ sung là trường hợp luật sư tham gia bào chữa cho bị can, bị cáo trong vụ án hình sự và vào từng giai đoạn cụ thể có thể là giai đoạn truy tố tại Viện kiểm sát, Luật sư kiến nghị việc trả hồ sơ cho cơ quan Điều tra để tiến hành điều tra bổ sung hoặc sau khi Viện kiểm sát đã quyết định truy tố bằng Bản cáo trạng ra Tòa án có thẩm quyền thì Luật sư kiến nghị Thẩm phán thụ lý vụ án ra Quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung hoặc Tại phiên tòa luật sư bào chữa để Hội đồng xét xử trả hồ sơ điều tra bổ sung.

Giai đoạn mà luật sư có quyền tham gia theo quy định tại Bộ luật TTHS, Luật Luật sư và các văn bản pháp luật liên quan, cụ thể:

I. Giai đoạn tố tụng mà luật sư có thể tham gia

Theo quy định tại khoản 2 Điều 72 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 (BLTTHS) thì người bào chữa có thể là:

“a) Luật sư;

b) Người đại diện của người bị buộc tội;

c) Bào chữa viên nhân dân;

d) Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý.”

Bên cạnh đó, Điều 74 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định về thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng như sau:

“Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can.

Trường hợp bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ.

Trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.”

Căn cứ những quy định trên, luật sư có thể tham gia tố tụng để bào chữa cho em bạn khi em bạn hoặc gia đình bạn có giấy mời luật sư sau đó Luật sư sẽ tiến hành những thủ tục cần thiết để được cấp Giấy chứng nhận bào chữa theo quy định của BLTTHS và những văn bản có liên quan.

II. Quyền hạn của Luật sư (người bào chữa)

Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa được quy định cụ thể tại Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 như sau:

“1. Người bào chữa có quyền:

a) Gặp, hỏi người bị buộc tội;

b) Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can;

c) Có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này;

d) Được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này;

đ) Xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình, quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;

e) Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế;

g) Đề nghị tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này; đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

h) Thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

i) Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;

k) Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản;

l) Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa từ khi kết thúc điều tra;

m) Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa;

n) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

o) Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất theo quy định của Bộ luật này.

Bạn có thể tham khảo thêm nội dung tư vấn áp dụng văn bản pháp luật theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003:

I. Giai đoạn tố tụng mà luật sư có thể tham gia

Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) thì người bào chữa có thể là:

1.  Luật sư;

2.  Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;

3.  Bào chữa viên nhân dân.

Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 58 BLTTHS có quy định: Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can, Trong trường hợp bắt người theo quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.

Căn cứ những quy định trên, luật sư có thể tham gia tố tụng để bào chữa cho em bạn khi em bạn hoặc gia đình bạn có giấy mời luật sư sau đó Luật sư sẽ tiến hành những thủ tục cần thiết để được cấp Giấy chứng nhận bào chữa theo quy định của BLTTHS và những văn bản có liên quan.

II. Quyền hạn của Luật sư (người bào chữa)

Theo quy định tại khoản 2 Điều 58 BLTTHS thì Luật sư (người bào chữa) có quyền:

1.  Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;

2.  Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can;

3.  Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này;

4.  Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác;

5.  Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

6.  Gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam;

7.  Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật;

8.  Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà;

9.  Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

10. Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Thuê luật sư bào chữa hình sự ở Hà Nội

Gọi cho một luật sư chuyên hình sự tại Hà Nội : 1900. 599. 979

Bạn đã bị buộc tội về một tội ác mà bạn đã không phạm phải và tìm kiếm công lý nhanh chóng và không bị tổn thương trong khi duy trì danh dự và nhân phẩm của bạn? Hoặc, có lẽ bạn đã là nạn nhân của một tội ác và tìm kiếm sự trừng phạt hợp pháp đối với những người đã làm hại bạn hoặc gia đình bạn. Bạn thậm chí có thể tự mình phạm tội và mong muốn giải quyết tốt nhất có thể. Bất kể nguyên nhân hay động cơ, Văn phòng Luật sư Dragon sẽ tạo điều kiện cho công lý nhanh chóng và phù hợp cho các khách hàng tại Hà Nội và Hải Phòng của chúng tôi để họ nhận được phán quyết tốt nhất có thể.

Đó là, nếu bạn đã bị nhà nước buộc tội theo bộ luật hình sự, bắt buộc phải xuất hiện trước cơ quan quản lý hoặc muốn kháng cáo quyết định, Văn phòng Luật sư Dragon sẽ luôn cung cấp cho bạn sự hài lòng hoàn toàn. Hơn nữa, chúng tôi tính phí trên cơ sở lãi suất cố định để bạn nhận thức đầy đủ về các khoản chi tiêu trước khi chúng tôi thực hiện trường hợp của bạn. Bạn sẽ không bao giờ phải lo lắng về các cáo buộc ẩn hoặc những bất ngờ khó chịu khác trước và sau khi phán quyết được đưa ra.

Hơn nữa, Văn phòng Luật sư Dragon sẽ luôn bảo vệ bạn một cách trung thực và đạo đức. Chúng tôi sẽ sử dụng mọi phương tiện theo ý của chúng tôi để đảm bảo rằng công lý được đáp ứng và bạn sẽ nhận được phán quyết tốt nhất có thể, đưa ra bằng chứng. Văn phòng luật sư Dragon cũng sẽ tham khảo đầy đủ với bạn về các tùy chọn có sẵn và đề xuất lựa chọn tốt nhất cho nhu cầu duy nhất của bạn. Đó là, chúng tôi luôn đặt lợi ích tốt nhất của bạn lên hàng đầu và sẽ thực hiện các bước chủ động để vượt ra ngoài sự đại diện đơn thuần.

Ví dụ, các luật sư hình sự tại Hà Nội của chúng tôi được yêu cầu đăng ký vào các chương trình sáng kiến ​​giáo dục thường xuyên để họ cập nhật kiến thức hiểu biết hệ thống pháp lý – và tất cả các sắc thái của nó – một cách triệt để. Chúng tôi cũng đầu tư vào nghiên cứu và phát triển công nghệ để đảm bảo rằng kiến ​​thức về các đạo luật pháp lý của chúng tôi luôn cập nhật và chính xác.

Do đó, nếu bạn đã bị buộc tội hoặc là nạn nhân của tội phạm, bạn sẽ cần một luật sư pháp lý tốt nhất để đưa ra phán quyết mà bạn mong muốn. Các công tố viên và luật sư hình sự tận tâm, có kinh nghiệm và có trình độ học vấn cao của chúng tôi có một hồ sơ theo dõi thành công đã được chứng minh và có khả năng sẽ tạo điều kiện cho bản án mà bạn và gia đình bạn mong muốn. Hơn nữa, chúng tôi đã xử lý các vụ án hình sự từ rửa tiền đến giết người hàng loạt. Do đó, không có vụ án hình sự nào ở Hà Nội quá tầm thường hay khó khăn đối với các luật sư hình sự tại Văn phòng Luật sư Dragon.

Hãy cho chúng tôi về trường hợp hay vụ việc của bạn

Đại diện tư vấn trực tiếp của chúng tôi luôn sẵn sàng 24/7 để hỗ trợ bạn và có thể lên lịch tư vấn với chuyên gia luật của chúng tôi.

Thuê luật sư bào chữa cho người bị bắt

Thuê luật sư bào chữa cho người bị bắt là trường hợp người bị tình nghi hay còn gọi là nghi can có thể bị bắt quả tang hoặc bị tạm giữ song bắt hoặc bị mời về làm việc tại trụ sở cơ quan điều tra song bắt, trong tường hợp này người bị bắt có quyền thuê luật sư để bào chữa cho mình.

Người bị bắt tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt tạm giữa người bị bắt tạm giữ được nghe, nhận lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, quyết định phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp;

Người bị bắt tạm giữ trong trường hợp khẩn cấp có các quyền:

– Được biết lý do mình bị giữ;

– Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự;

– Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;

– Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

– Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tố tụng kiểm tra, đánh giá và các quyền khác

Người bị bắt tạm giữ có được quyền nhờ luật sư. Theo quy định thì người bị bắt tạm giữ có quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật sư bảo chữa cho mình. Nếu nhờ luật sư bào chữa họ có quyền yêu cầu cơ quan đang thụ lý vụ việc liên hệ luật sư để họ có thể nhờ luật sư bào chữa cho mình, ngoài ra họ cũng có các quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc giữ người, bắt người.

Người bị bắt theo quy định tại Điều 58 Bộ luật Tố tụng hình sự thì là bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc bắt theo quyết định truy nã. Khi bị bắt người bị bắt có các nghĩa vụ chấp hành lệnh bắt người và yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền bắt người theo quy định của pháp luật.

Người bị bắt khi bị bắt có quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật sư bào chữa và một số quyền cơ bản sau:

Được biết lý do mình bị giữ, bị bắt;
Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;
Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tố tụng kiểm tra, đánh giá;
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc giữ người, bắt người. Và một số quyền khác.
Khi bị tạm giữ có được thuê luật sư? Người bị tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ. Ngoài các quyền cơ bản được quy định tại Khoản 2 Điều 59 Bộ luật Tố tụng hình sự thì người bị tạm giữ có quyền tự bào chữa hoặc thuê luật sư bào chữa.

Thuê luật sư bào chữa tại Công ty luật Dragon. Vui lòng liên hệ: 1900.599.979

 

Khi chưa khởi tố mà nhận được giấy triệu tập của công an có nên thuê luật sư bào chữa

Tôi có giấy triệu tập của công an thành phố, liên quan đến tội trộm cắp xảy ra do bạn tôi làm đơn, mặc dù tôi khẳng định tôi không liên quan đến sự việc của bạn tôi mất trộm? mất bao nhiêu tiền? mất ở đâu ? như thế nào? bạn ấy làm đơn vu khống cho tôi.. Tôi bị công an gọi điện mời tôi, tôi vì không hiểu pháp luật nên đã ký hợp đồng thuê luật sư bào chữa bảo vệ cho tôi, đến lịch hẹn làm việc theo giấy triệu tập? Luật sư của tôi đi cùng tôi đến xuất trình tại công an điều tra như giấy giới thiệu, đơn mời luật sư bào chữa và thẻ luật sư, nhưng bên công an đã từ chối không cho luật sư bào chữa cho tôi tham gia với lý do, hiện nay chưa khởi tố vụ án, chưa khởi tố tôi, công an chỉ mời lên làm rõ sự việc, công an đề nghị tôi và luật sư bổ sung thêm hợp đồng dịch vụ pháp lý? Lúc đấy tôi thấy luật sư bảo tôi cứ làm việc với công an và luật sư bỏ ra về. Tôi rất hoang mang và đã bị sốc nên từ chối không làm việc với công an và xin hẹn buổi khác, tôi có nói với công an là phải có luật sư thì tôi mới làm việc sau đó tôi đi về. Luật sư của tôi không giải thích cho tôi biết lý do và ý kiến của cơ quan điều tra đúng hay sai? Nay tôi nhờ luật sư tư vấn ý kiến của công an như vậy có đúng không? luật sư bảo vệ cho tôi làm như vậy có đúng không? Tôi rất hoang mang khi tìm chọn một công ty luật có uy tín mà lại có một luật sư hành xử như vậy? Rất mong Công ty luật Dragon tư vấn gấp cho tôi.

Phúc đáp yêu cầu tư vấn pháp luật của anh/chị, đề nghị cho ý kiến về một số nội dung pháp lý liên quan đến việc: người bị kiến nghị khởi tố/bị tố giác có được mời Luật sư không, Luật sư Công ty luật Dragon có ý kiến như sau:

*) Đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác:

Theo như trình bày thì anh/chị đang bị tố giác về hành vi trộm cắp tài sản. Khoản 1 Điều 83 Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác là người được người bị tố giác nhờ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Luật sư là một trong những người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác (điểm a khoản 2 Điều 83 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015). Như vậy, anh/chị có quyền mời Luật sư để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình ngay từ khi bị tố giác (từ khi chưa có quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can).

Khoản 1 Điều 27 Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi bổ sung năm 2012) quy định: “Hoạt động tham gia tố tụng của luật sư phải tuân theo quy định của pháp luật về tố tụng và Luật này”.

Bộ Luật Tố tụng hình sự không quy định rõ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác phải xuất trình những giấy tờ gì khi làm việc với Cơ quan Cảnh sát điều tra. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm làm việc thực tế của Luật sư và quy định tại điểm a khoản 2 Điều 78 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì những giấy tờ Luật sư cần xuất trình khi làm việc với Cơ quan CSĐT là: Giấy giới thiệu của công ty luật cử luật sư đến cơ quan điều tra làm việc, Thẻ luật sư kèm theo bản sao có chứng thực và giấy yêu cầu đơn mời luật sư của người bị tố giác ( anh chị cũng như Luật sư không phải xuất trình Hợp đồng dịch vụ pháp lý).

Như vậy, việc công an từ chối không cho luật sư tham gia với lý do: hiện nay chưa khởi tố vụ án, chưa khởi tố bị can, công an chỉ mời lên làm rõ sự việc và đề nghị anh và luật sư bổ sung thêm hợp đồng dịch vụ pháp lý là vi phạm tố tụng.

*) Quyền của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác:

Khoản 3 Điều 83 Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 quy định: Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác có quyền:

  1. a) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
  2. b) Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
  3. c) Có mặt khi lấy lời khai người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố và nếu được Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên đồng ý thì được hỏi người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố. Sau mỗi lần lấy lời khai của người có thẩm quyền kết thúc thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có quyền hỏi người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố;
  4. d) Có mặt khi đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố;

đ) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Luật sư bào chữa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của anh/chị không đưa ra ý kiến nào và bỏ về khi bị công an từ chối là không thực hiện quyền của mình theo quy định trên. Không bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp tốt nhất cho khách hàng. Việc anh/chị từ chối không làm việc với công an, xin hẹn buổi khác và nói với công an là phải có luật sư bào chữa cho anh/chị thì anh/ chị mới làm việc với cơ quan điều tra là đúng với quy định của pháp luật.

Trên đây là quan điểm ý kiến của Thạc sĩ Luật sư Nguyễn Minh Long Giám đốc Công ty Luật Dragon – Đoàn Luật sư TP. Hà Nội về nội dung vụ viêcj trên.

Để biết thêm thông tin chi tiết bạn có thể liên hệ với Luật sư Hà Nội và Luật sư Hải Phòng theo địa chỉ dưới đây.

  1. Trụ sở chính Công ty Luật Dragon tại quận Cầu Giấy:  Phòng 6, Tầng 14, Tòa nhà VIMECO, Đường Phạm Hùng, Phường Trung Hòa, Quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội.
  2. VPĐD luật sư Công ty luật Dragon tại quận Long Biên: Số 24 Ngõ 29 Phố Trạm, phường Long Biên, quận Long Biên, Tp Hà Nội.
  3. Chi nhánh Công ty Luật Dragon tại Hải Phòng: Phòng 6 tầng 4 Tòa Nhà Khánh Hội, đường Lê Hồng Phong, quận Hồng Bàng, Tp Hải Phòng.

Công ty Luật Dragon cung cấp biểu phí và thù lao luật sư bào chữa tham khảo tại đây

Trân trọng!

CÔNG TY LUẬT DRAGON

Luật sư chuyên bào chữa vụ án hình sự

ĐIỀU LUẬT

ÁN LỆ