1900599979

Điều 160 quy định tội đầu cơ

1.  Người nào lợi dụng tình hình khan hiếm  hoặc tạo ra sự khan hiếm giả tạo trong tình hình thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh mua vét hàng hoá có số lượng lớn nhằm bán lại thu lợi bất chính gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm  năm.

2.  Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

a) Có tổ chức;

b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

c) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

d) Hàng đầu cơ có số lượng rất lớn;

đ) Thu lợi bất chính rất lớn;

e)  Gây hậu quả rất nghiêm trọng;

g) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ tám năm đến mười lăm năm:

a) Hàng đầu cơ  có số lượng đặc biệt lớn;

b) Thu lợi bất chính đặc biệt lớn;

c) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

4.  Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

Luật hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định như sau về tội đầu cơ:

Khoản 1 Điều 160 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“1. Người nào lợi dụng tình hình khan hiếm hoặc tạo ra sự khan hiếm giả tạo trong tình hình thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh hoặc tình hình khó khăn về kinh tế mua vét hàng hoá có số lượng lớn nhằm bán lại thu lợi bất chính gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt tiền từ hai mươi triệu đồng đến hai trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.”

PHÂN TÍCH CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TỘI ĐẦU CƠ:

Đầu cơ là một tội phạm kinh tế được quy định trong điều 165 Bộ luật hình sự. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm tới nhiệm vụ đấu tranh ngăn chặn loại tội phạm này, tuy nhiên, hiệu quả của cuộc đấu tranh chống tội đầu cơ chưa cao, và như báo Đảng đã nhận định : Hiện nay bọn đầu cơ, buôn lậu, tích trữ, buôn bán hàng quốc cấm…ráo riết hoạt động, tiếp tục tiến công vào trận địa xã hội chủ nghĩa một cách ác đôc, xảo quyệt, gây rối loạn thị trường, gây tâm lý không ổn định trong nhân dân[1].

Trước tình hình nói trên, việc nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh chống tội đầu cơ là một nhiệm vụ quan trọng và cấp bách.

Trong Hội nghị Hội đồng thẩm phán “Sơ kết công tác xét xử các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép” năm 1985, đồng chính Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã nhận định: “…Công tác đấu tranh chống loại tội xâm phạm trật tự quản lý thị trường nói chung và công tác xét xử của Toà án nói riêng còn nhiều khó khăn và còn mắc nhiều khuyết đỉêm – nhiều bản án còn định tội lầm lẫn giữa đầu cơ với các tội kinh doanh trái phép; buôn lậu (nội địa), buôn lậu qua biên giới; cố ý làm trái nguyên tắc, chính sách, chế độ, thể lệ về kinh tế tài chính hoặc tham ô… Việc vận dụng đường lối xử lý hành chính đã truy tố và xét xử hình sự; ngược lại có vụ án người bi phạm rất nghiêm trọng, đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm nhưng đã không truy tố, xét xử quá nặng hoặc quá nhẹ, hoặc tuỳ vụ án cùng tính chất và mức độ phạm tội nhưng mức án chênh lệch nhau quá xa giữa các địa phương không đảm bảo tính thống nhất của pháp luật”2.

Một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn tới hậu quả nêu trên, theo chúng tôi là cho đến nay chưa có sự thống nhất trong cách  hiểu và áp dụng điều luật quy định về tội đầu cơ.

Vì vậy, tìm hiểu khía niệm tội đầu cơ, nghiên cứu nội dung điều 105 quy định tội đầu cơ là một việc làm cần thiết có ý nghĩa lý luật và thực tiễn.

Theo lời văn trong khoản điều 165 Bộ luật hình sự thì có thể hiểu tội đầu cơ là hành vi mua vét hàng hoá, lương thực, vật tư, các loại tem, phiếu, vé, giấy tờ có giá trị phân phối hàng hoá, lương thực, vật tư hoặc cung ứng dịch vụ của một người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự nhằm bán lại để thu lợi bất chính. Nội dung của khoản 1 bao hàm tất cả mọi trường hợp phạm tội đầu cơ, vì vậy đây chính là cấu thành cơ bản của tội đầu cơ – cấu thành mà chúng ta cần phân tích để tìm hiểu nội dung của tội đầu cơ. Để hiểu rõ khái niệm tội đầu cơ chúng tôi chỉ phân tích sâu những dấu hiệu bắt buộc về 4 yếu tố cấu thành cơ bản của tội đầu cơ như đã nêu trên.

Về mặt khách quan của tội đầu cơ: trong khoản 1 điều 165 khi quy định các hành vi vi phạm tội đầu cơ, ngoài hành vi “mua vét” người làm luật không đề cập một hành vi nào khác. Như vậy “mua vét” là dấu hiệu đặc trưng, bắt buộc và đầy đủ trong mặt khách quan của tội đầu cơ. Điều này có nghĩa là, cùng với các dấu hiệu cần thiết, bắt buộc khác về khách thể, về mặt chủ quan, về chủ thể của tội phạm, hành vi “mua vét” đã đủ cấu thành tội đầu cơ hoàn thành. Bán lại hàng hoá không phải là dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của tội đầu cơ. “Bán lại hàng hoá” sẽ là dấu hiệu (nhưng không bắt buộc) trong mặt khách quan của tội đầu cơ, nếu kẻ đầu cơ đã thực hiện được hành vi đó. Còn nếu kẻ phạm tội mới chỉ thực hiện được hành vi mua vét, thì “bán lại” lúc này phải là dấu hiệu bắt buộc  trong mặt chủ quan của tội đầu cơ với ý nghĩa là mục đích của việc mua vét. Tích trữ cũng khổng phải là dấu hiệu bắt buộc của tội đầu cơ. Địa điểm mua vét, người mua vét đều không phải là dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của tội đầu cơ. Kẻ đầu cơ mua vét hàng hoá ở đâu, mua ở thị trường tự do hay thị trường có tổ chức, mua xong có bán lại ngay hay tích trữ, bán ở đâu, bán với giá nào, đã thu lợi hay chưa thu lợi, thu lợi nhiều hay ít hoặc thậm chí không thu lợi, điều đó không làm thay đổi ý nghĩa pháp lý của hành vi “mua vét” như một dấu hiệu bắt buộc nêu trên chỉ có ý nghĩa trong quá trình quyết định hình phạt đối với người phạm tội.

Hiện nay, có một số người cho rằng quy định trong mặt khách quan của tội đầu cơ tại điều 165 chưa đầy đủ vì lý do thiếu dấu hiệu bắt buộc “bán lại” hàng hoá như thông nthường quy định về tội đầu cơ trong luật hình sự của các nước xã hội chủ nghĩa trong đó có Liên Xô (điều 154 Bộ luật hình sự Cộng hoà liên bang Nga và các điều luật tương ứng trong các bộ luật hình sự của các nước Cộng hoà liên bang). Theo quan điểm của chúng tôi, việc xây dựng các cấu thành tội phạm, hay nói cách khác việc tội phạm hoá một hành vi nguy hiểm cho xã hội và quy định những dấu hiệu bắt buộc trong từng cấu thành tội phạm cụ thể là tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của từng nước. Ở nước ta, trong mặt khách quan của tội đầu cơ điều luật chỉ quy định một dấu hiệu bắt buộc duy nhất là “mua vét”, hay nói cách khác thì điểm hoàn thành của tội đầu cơ được quy định ngay sau khi có hành vi “mua vét” là hoàn toàn phù hợp với thực tiễn và đáp ứng được yêu cầu đấu tranh chống lại tội đầu cơ hiện nay.

Mua vét là dấu hiệu đặc trưng bắt buộc trong mặt khách quan của tội đầu cơ. Vậy mua vét là gì?

Mua vét ở đây được hiểu là mua một số lượng hàng hoá vượt quá nhu cầu tiêu dùng, dự trữ cần thiết cho sinh hoạt của bản thân và gia đình và nhu cầu hoạt động nghề nghiệp của họ. Theo nội dung điều 1 Nghị Định số 46 ngày 10/5/1983 cuả Hội đồng Bộ trưởng thì có thể hiểu giá trị tối thiểu của số hàng hoá mua vét được coi là tội phạm là 20 nghìn đồng (tiền cũ). Điều 11 Nghị Định trên còn quy định trị giá hàng hoá đó do cơ quan quản lý giá địa phượng xác đinh theo giá trugn bình trên thị trường không có tổ chức trong thời gian xử lý vi phạm.

Như vậy, khi xem xét mua hàng hoá có phải là mua vét hay không, cần chú ý tới hai điểm: 1) Giá trị hàng hoá có đạt tới và vượt quá mức 20 nghìn đồng (tiền cũ) hay không; 2) trong thực tế, số lượng hàng hoá đã mua có vượt quá nhu cầu tiêu dùng, sinh hoạt, hoạt động nghề nghiệp của bản thân người muavà gia đình người đó hay không. Thiếu một trong hai điểm nêu trên, hành vi mua hàng hoá không được coi là hành vi mua vét, và hành vi đó không cấu thành tội đầu cơ.

Trong cấu thành cơ bản của tội đầu cơ quy định trong khoản 1 điều 165 không đề cập những dấu hiệu nói về thủ đoạn và phương pháp phạm tội đầu cơ mà trước đó đã được quy định trong điều 2 Pháp lênh trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép ngày 30/6/1982 là lợi dụng những khó khăn về kinh tế hoặc tạo ra những khó khăn về kinh tế. Trong thực tiễn, thủ đoạn và phương pháp phạm tội của bọn người đầu cơ muôn hình muôn vẻ, hành vi phạm tội của chúng được thực hiện không chỉ thông qua các thủ đoạn và phương pháp nêu trên. Vì vậy, việc đưa các dấu hiệu về thủ đoạn và phương pháp phạm tội ra khỏi cấu thành cơ bản và quy định trong các cấu thành với các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhệ không những thể hiện kỹ thuật lập pháp của người làm luật mà còn có tác dụng mở rộng khái niệm tội đầu cơ đáp ứng được yêu cầu đấu tranh chống tội đầu cơ đang diễn biến nghiêm trọng trong thời gian hiện nay.

Về khách thể của tội đầu cơ. Để hiểu rõ khái niệm của tội đầu cơ và phân biệt tội đầu cơ với các tội phạm khác quy định trong chương Các tội phạm về kinh tế cần thiết phải xác định khách thể trực tiếp của nó.

Theo lý luận về luật hình sự, thì khách thể trực tiếp của một tội phạm là các quan hệ xã  hội bị hành vi tội phạm ấy trực tiếp xâm hại. Tuy nhiên, cho tới nay, các quan hệ xã hội nào là khách thể trực tiếp của nó.

Theo lý luận về luật hình sự, thì khách thể trực tiếp của một tội phạm là các quan hệ xã hội bị hành vi tội phạm ấy trực tiếp xâm hại. Tuy nhiên, cho tới nay, các quan hệ xã hội nào là khách thể trực tiếp của tội đầu cơ cũng còn đang là một đề tài tranh cãi. Xin dẫn dưới đây một vài ví dụ điển hình.

Trong bài “một số ý kiến về đường lối xét xử tội đầu cơ” đăng trong Tập san Toà án nhân dân số 3 năm 1984 tác giả bài báo viết: “Bản thân hành vi kinh doanh trái phép cũng có ảnh hưởng đến chính sách quản lý thị trường và giá cả nhưng không trực tiếp, mà quan hệ xã hội này đóng vai trò là khách thể trực tiếp trong tội đầu cơ” (trang 25); còn trong bài “phân biệt tội đầu cơ với tội kinh doanh trái phép” đăng trong Tập san Toà án nhân dân số 2 năm 1985 (trang 24) tác giả viết: “ khách thể trực tiếp của tội kinh doanh trái phép là các nguyên tắc, thủ tục về quản lý hành chính công thương nghiệp. Còn khách thể của tội đầu cơ là lợi ích của nền kinh tế quốc dân Xã hội chủ nghĩa, lợi  ích của người tiêu dùng”.

Theo chúng tôi cả hai quan điểm về khách thể trực tiếp của tội đầu cơ nêu trên đều chưa chính xác.

Như trên đã đề cập, khách thể trực tiếp của tội đầu cơ phải là những quan hệ xã hội bị hành vi phạm tội của kẻ đầu cơ trực tiếp xâm hại. Trên cơ sở ấy, không thể coi lợi ích của nền kinh tế quốc dân Xã hội chủ nghĩa là khách thể trực tiếp của tội đầu cơ được vì hành vi mua vét hàng hoá không trực tiếp xâm hại đến nền kinh tế quốc dân mặc dù có gây thiệt hại cho nó thông qua việc xâm hại những mối quan hệ xã hội khác. Trong thực tế thì ngoài tội đầu cơ còn có một số tội phạm khác, ví dụ tội lưu hành sản phẩm kém chất lượng (điều 177), tội cố ý làm trái những quy định của nhà nước về kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng (điều 147), tội trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa (điều 132), v.v…cũng gây thiệt hại cho nền kinh tế quốc dân.

Khác với một số nước Xã hội chủ nghĩa, ở đó đầu cơ được coi là một tội phạm kinh tế trong lĩnh vực thương nghiệp1. Ở nước ta, ngoài lĩnh vực thương nghiệp, cung ứng vật tư nông nghiêp, cung ứng vật tư xây dựng v.v…Các vụ đầu cơ xăng dầu, sắt thép, xi măng, phân hoá học v.v… đều xâm phạm tới chính sách quản lý thị trường. Chính vì vậy, quan điểm cho chính sách quản lý thị trường là khách thể trực tiếp của tội đầu cơ là không đúng. Như trên đã phân tích, hành vi mua vét là dấu hiệu bắt buộc của tội đầu cơ, nó cũng là dấu hiệu đặc thù chỉ được quy định trong điều 165 chứ không được quy định trong bất kỳ một điều luật nào khác của Bộ luật hình sự. Vì vậy, mối quan hệ xã hội nào bị hành vi mua vét trực tiếp xâm hại sẽ là khách thể trực tiếp của tội đầu cơ. Qua nghiên cứu các vụ án đầu cơ đã xảy ra thì thấy rằng, hành vi phạm tội của kẻ đầu cơ được thực hiện ở một trong 2 trường hợp sau đây:

1. Kẻ phạm tội đã mua vét hàng hoá nhưng chưa bán lại được số hàng hoá đó để đạt được mục đích thu lại bất chính (tội phạm đã hoàn thành về hành vi nhưng chưa đạt được mục đích);

2. Kẻ phạm tội mua vét hàng hoá và đã bán lại hàng hoá để thu lợi bất chính (tội phạm đã hoàn thành về hành vi và đã đạt được mục đích);

Trong cả hai trượng hợp nêu trên, hành vi phạm tội của kẻ đầu cơ đều trực tiếp xâm hại tới những quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ thể hiện trong chính sách về lưu thông phân phối, chính sách quản lý giá cả của Nhà nước và lợi ích chính đáng của người sản xuất và người tiêu dùng.

Do hành vi mua vét hàng hoá của kẻ đầu cơ mà số hàng hoá, nhiên vật liệu không còn nằm trong mạng lưới lưu thông phân phối của Nhà nước nữa  và không được lưu thông (trao đổi, mua bán) theo những giá cả do nhà nước quy định. Hành vi mua vét của kẻ đầu cơ đã tạo ra sự khan hiếm giả tạo về hành hoá và nguyên vật liệu trên thị trường (kể cả thị trường có tổ chức và thị trường tự do), làm cho việc mua bán trao đổi diễn ra không theo đúng các quy định của Nhà nước về giá cả và về lưu thông phân phối. Chính vì hành vi mua vét hàng hoá và nguyên vật liệu nên số hàng hoá và nguyên vật liệu này không đến tay người sản xuất và người tiêu dùng. Nếu một kẻ đầu cơ thực hiện được cả hai hành vi là mua vét hàng hoá và bán lại hàng hoá nhằm thu lợi bất chính thì lợi ích của người sản xuất, người tiêu dùng, chính sách lưu thông phân phối, chính sách quản lý giá của Nhà nước bị xâm hại hai lần. Lần thứ nhất, do hành vi mua vét hàng hoá của kẻ đầu cơ nên một số hàng hoá và nguyên vật liệu không còn nằm trong mạng lưới lưu thông phân phối của Nhà nước, người sản xuất và người tiêu dùng không đuợc mua hoặc cung cấp số hàng hoá, nguyên vật liệu đó mà việc mua và nhận hàng hoá là quyền lợi chính đáng của họ. Sự khan hiếm giả tạo về một loại hàng hoá, nguyên vật liệu nào đó do kẻ đầu cơ đã mua vét theo sự biến động về giá cả đối với chính loại hàng hoá đó và một số loại hàng hoá khác.Sau khi tạo ra những khó khăn về kinh tế, cụ thể là tạo ra sự khan hiếm giả tạo về hàng hoá trên thị trường, kẻ đầu cơ bán ra số hàng hoá đã mua vét thì người sản xuất và người tiêu dùng lại phải chịu thiệt hại lần thứ 2 vì phải mua với giá không theo quy định (thông thường là cao hơn) và lại một lần nữa chính sách về quản lý giá cả, chính sách về lưu thông phân phối của nhà nước bị hành vi tội phạm của kẻ đầu cơ xâm hại.

Theo lời văn ở khoản 1 điều 165 thì hàng hoá, lương thực, vật tư, các loại tem, phiếu, vé, giấy có giá trị phân phối hàng háo, lương thực, vật tư, hoặc cung ứng vật tư là đối tượng tội đầu cơ (đối tượng xâm hại). Tuy nhiên một vấn đề đặt ra là có phải tất cả các loại hàng hoá hay chỉ một số loại hàng hoá nào đó mới là đối tượng của tội đầu cơ.

Theo thông tư liên ngành số 06-TTLN ngày 20/12/1982 của Bộ tư pháp, Bộ nội vụ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao giải thích Pháp lệnh ngày 30/6/1982 thì chỉ có các loại hàng hoá do Nhà nước thống nhất quản lý mới được coi là đối tượng đầu cơ. Ngoài ra, thông tư trên còn giải thích rằng: “Đối với những hàng hoá không thuộc diện Nhà nước quản lý còn khá rộng hiện nay nhất là các loại hàng quan trọng trong tiêu dùng, thì việc lợi dụng những khó khăn bất thường (thiên tai, dịch bệnh) hoặc có tính chất thời vụ (giáp hạt, các ngày lễ tết, khai trường…) mà dùng các thủ đoạn mua vét nói trên làm tăng thêm những khó khăn, đẩy giá lên cao, gây rối loạn thị trường một cách nghiêm trọng, cũng là tội đầu cơ”4.

Như vậy, theo quan niệm của các cơ quan ban hành thông tư liên ngành số 06-TTLN thì hàng hoá do Nhà nước thống nhất quản lý luôn được coi là đối tượng tội đầu cơ, còn những hàng hoá nhà nước không thống nhất quản lý sẽ là đối tượng tội đầu cơ khi kẻ mua vét lợi dụng hoặc tạo ra những khó khăn về kinh tế. Người đồng tình với quan điểm trên đã viết: “… Đối với những hàng hoá thuộc loại tư nhân được phép buôn bán trên thị trường tự do, nếu chỉ có hành vi mua bán kiếm lời không chính đáng như buôn bán không đăng ký, trốn thuế v.v…. thì không phải là đầu cơ mà chỉ là kinh doanh trái phép, vì không có yếu tố lợi dụng hoặc tạo ra những khó khăn về kinh tế”5

Theo chúng tôi, quan niệm về đối tượng tội đầu cơ như hiện nay không còn đúng với nội dung điều 165 và không phù hợp với bản chất của tội đầu cơ đang diễn ra trong thực tiễn.

Trước hết, coi yếu tô lợi dụng hoặc tạo ra những khó khăn về kinh tế trong khi mua vét hàng hoá là căn cứ để xác định hàng hoá đó có là đối tượng tội đầu cơ hay không (và thông qua đó xác định hành vi mua vét có là tội đâu cơ hay không) là không đúng với điều luật mới. Sau nữa, xét từ góc độ hình sự và góc độ tội phạm học đối với tội đầu cơ ta thấy rằng, mục đích của đầu cơ là thu lợi bất chính, và để thực hiện mục đích này kẻ phạm tội không từ một thủ đoạn và phương pháp nào. Mọi hành vi mua vét hàng hoá bao giờ cũng gây ra những khó khăn về kinh tế và mua vét bất kỳ thứ hàng hoá nào cũng đều trực tiếp xâm phạm tới chính sách về lưu thông phân phối, chính sách quản lý giá cả của Nhà nước, lợi ích của người sản xuất và người tiêu dùng.

Chính vì vậy, cần phải coi tất cả các loại hàng hoá,cho dù đó là hàng hoá nhà nước thống nhất quản lý hay không quản lý hay không quản lý, đều là đối tượng của kẻ đầu cơ. Theo chúng tôi quan điểm này phù hợp với quy định điều luật và đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ đấu tranh chống tội đầu cơ trong giai đoạn cách mạng hiện nay.

Về mặt chủ quan của tội đầu cơ. Mặt chủ quan của tội đầu cơ bao gồm ba dấu hiẹu: lỗi, động cơ, mục đích phạm tội. Trong tội đầu cơ, lỗi được biểu hiện dưới hình thức cố ý trực tiếp. Kẻ đầu cơ biết trước được tính chất nguy hiểm của hành vi mua vét hàng hoá là xâm hại tới chính sách quản lý giá cả. Chính sách về lưu thông phân phối của nhà nước, lợi ích chính đáng của người sản xuất và người tiêu dùng và đã mong muốn cho hậu quả xảy ra. Hành vi phạm tội của kẻ đầu cơ được thể hiện dưới hình thức hành động tích cực, cụ thể là mua vét hàng hoá nhămf bán lại để thu lợi bất chính. Trong thực tiễn, việc mua vét hàng hoá chỉ có thể được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp của kẻ đầu cơ, và vì vậy đây cũng là một dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của tội đầu cơ mặc dù nó không được quy định trong cấu thành cơ bản của tội đầu cơ trong khoản 1 điều 165.

Bán lại hàng hoá đã mua vét để thu lợi bất chính là mục đích của tội đầu cơ được quy định trong cấu thành của tội phạm. Nếu thiếu dấu hiệu nhằm bán lại hàng hoá để thu lợi bất chính thì hành vi mua vét hàng hoá sẽ không cầu thành tội đầu cơ. Các từ “nhằm” trước tập hợp từ “bán lại” và từ “để” trước tập hợp từ “thu lợi bất chính” đã khẳng định đây là mục đích duy nhất của tội đầu cơ. Mặt khác cần nói lên mối liên hệ khăng khít giữa hai dâú hiệu này. Mua vét không nhằm bán lại, hoặc mua vét nhằm bán lại không để thu lợi bất chính mà nhằm mục đích khác đều không coi là tội đầu cơ mà cấu thành một tội phạm khác.

Trong cấu thành cơ bản của điều 165 không quy định động cơ phạm tội đầu cơ. Động cơ phạm tội được hiểu là hoạt động tâm lý của kẻ phạm tội, thúc đẩy kẻ phạm tội thực hiện một hành vi phạm tội cụ thể. Trong tội đầu cơ, mục đích của kẻ phạm tội là thu được lợi ích vật chất thông qua việc tạo ra sự chênh lệch giữa giá mua và giá bán lại hàng hoá, hay nói như điều luật là thu lợi bất chính do mục đích thu lơị bất chính bao giờ cũng gắn liền với động cơ vụ lợi và vì vậy có thể coi vụ lợi cũng là một dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của tội đầu cơ.

Chủ thể tội đầu cơ. Theo quy định của điểm 6 khoản 2 điều 58 Bộ luật hình sự thì tất cả mọi công dân Việt Nam, người nước ngoài; người không có quốc tịch ở độ tuổi từ đủ 16 tuổi trở lên, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đều có thể là chủ thể của tội đầu cơ và chịu trách nhiệm hình sự theo điều 165.

Theo khoản 2 điều 8 Bộ luật hình sự thì đầu cơ cũng có thể là một tội ít nghiêm trọng (nếu hành vi phạm tội được định tội danh theo khoản 1 điều 165, và cũng có thể là một tội nghiêm trọng (nếu hành vi phạm tội được định tộidanh theo khoản 2 và khoản 3 điều 165). Vì vậy, căn cứ vào khoản 1 điều 58, thì những người ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm về tội đầu cơ nếu hành vi phạm tội của họ được định tội danh theo khoản 2 và khoản 3 điều 165./.

Quý khách hàng có nhu cầu sử dụng dịch vụ luật sư bào chữa vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi:

CÔNG TY LUẬT DRAGON

Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến: 1900 599 979

Website: www.vanphongluatsu.com.vn
Email : dragonlawfirm@gmail.com
Facebook : https://www.facebook.com/vanphongluatsudragon

Văn phòng Luật sư tại Hà Nội: Phòng 14.6, Tầng 14, Tòa nhà Vimeco, đường Phạm Hùng, Q. Cầu Giấy, Hà Nội.

Văn Phòng Luật Sư tại Hải Phòng: Phòng 4.6 Tòa nhà Khánh Hội, Lô 2/3C đường Lê Hồng Phong, quận Ngô Quyền, Hải Phòng.

Xếp hạng
5/5

Chia sẻ

Share on facebook
Share on twitter
Share on linkedin
Share on pinterest
Share on tumblr

Tư vấn trực tuyến

Bài viết liên quan

Giải đáp thắc mắc

Tội huỷ hoại tài sản nhà nước

Tội hủy hoại tài sản nhà nước được quy định cụ thể trong Bộ luật Hình sự và có thể bị xử lý nghiêm theo pháp luật. Dưới đây là một số thông tin chung về tội hủy hoại tài sản: Định nghĩa: Tội hủy hoại tài sản là hành

Xem chi tiết »

Thời hạn tạm giam trong vụ án hình sự?

Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, thời hạn tạm giam bị can để điều tra không quá: 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng. 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng. 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội

Xem chi tiết »

Làm gì khi bị lừa đảo qua mạng

Luật sư tư vấn khi bị lừa đảo quan mạng, bạn cần bình tĩnh và thực hiện các bước sau: Dừng ngay việc gửi tiền hoặc thực hiện bất kỳ hành động nào khác theo yêu cầu của kẻ lừa đảo. Chặn tất cả các liên lạc từ kẻ lừa

Xem chi tiết »

ĐOÀN LUẬT SƯ HÀ NỘI

CÔNG TY LUẬT DRAGON

Giám đốc – Thạc sĩ Luật sư:  Nguyễn Minh Long

Công ty luật chuyên:

Hình sự – Thu hồi nợ – Doanh nghiệp – Đất Đai – Trọng tài thương mại – Hôn nhân và Gia đình.

  • Văn phòng luật sư quận Cầu Giấy:  Phòng 6 tầng 14 tòa nhà VIMECO đường Phạm Hùng, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
  • Văn phòng luật sư quận Long Biên: Số 24 ngõ 29 Phố Trạm, Phường Long Biên, Quận Long Biên, Hà Nội
  • Điện thoại: 1900 599 979 / 098.301.9109Email: dragonlawfirm@gmail.com

Hệ thống Website:

#luatsubaochua, #luatsutranhtung, #luatsuhinhsu, #luatsugioibaochua, #luatsubaochuahanoi, #luatsubaochuahaiphong

Điều luật tham khảo

Văn bản luật

Thủ tục liên quan đến thuê luật sư

Chi phí thuê luật sư bào chữa vụ án hình sự

Luật hình sự là quan hệ xã hội phát sinh giữa Nhà nước và người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội khi các chủ thể này thực hiện tội phạm. Theo quy định tại Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, những người có quyền nhờ luật sư bào chữa bao gồm:

  • Người bị bắt.
  • Người bị tạm giữ.
  • Bị can.
  • Bị cáo.
  • Bị hại.
  • Nguyên đơn dân sự.
  • Bị đơn dân sự.
  • Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.

Ngoài những đối tượng trên, theo quy định tại Điều 27 Luật Hình sự năm 2012, người đại diện hoặc người thân thích của người bị buộc tội cũng có quyền được nhờ luật sư bào chữa cho người bị buộc tội.

Quá trình tố tụng bắt đầu từ giai đoạn điều tra – truy tố – xét xử – thi hành án. Bất kể một cá nhân, đại diện, tổ chức nào ngay khi nhận được giấy mời, giấy triệu tập của cơ quan điều tra hoặc tại bất kỳ thời điểm nào trong quá trình tố tụng nêu trên đều có quyền và cần thiết phải nhờ sự hỗ trợ của luật sư.

Tuy nhiên, vì quá trình tố tụng kéo dài đói hỏi người bảo vệ quyền lợi cho thân chủ phải là người đồng hành cùng thân chủ trong xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự. Do đó, thời điểm tốt nhất để có thể nhờ luật sư bào chữa là ngay khi nhận được giấy triệu tập từ cơ quan điều tra. Vì, khi đó, luật sư có thể can thiệp pháp lý và bảo vệ cho thân chủ ngay từ giai đoạn đầu tiên.

Luật sư hình sự sẽ giúp ích gì cho bạn?

Luật sư hình sự tham gia vào vụ án hình sự trong suốt quá trình tố tụng từ sơ thẩm đến phúc thẩm hoặc có thể trong giai đoạn tái phẩm hoặc giám đốc thẩm với vai trò là người được nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự ủy quyền tham gia vụ án hoặc là người bảo vệ quyền và lợi ích cho thân chủ.

Tham gia vào ngay từ giai đoạn xác minh ban đầu, khi có giấy triệu tập và trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, luật sư hình sự có những nhiệm vụ sau:

  • Nghiên cứu, xác minh, thu thập chứng cứ theo quy định pháp luật để bảo vệ thân chủ. Đây là một trong những quyền và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 73 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
  • Đóng vai trò là người bảo vệ cho thân chủ tại những phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Giúp phiên tòa có cái nhìn khách quan hơn về động cơ, hoàn cảnh của thân chủ.
  • Luật sư hình sự là người am hiểu pháp luật, vận dụng những kỹ năng của một người luật sư, linh hoạt, mềm dẻo trong quá trình làm việc với cơ quan điều tra, cơ quan tiến hành tố tụng, giúp bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho thân chủ của mình.
  • Luật sư hình sự sẽ là người tư vấn đưa ra những giải pháp tốt nhất, đảm bảo đúng quy định pháp luật cho thân chủ của mình.

Vì sao bị can/bi cáo nên nhờ/thuê luật sư hình sự ngay từ ban đầu?

  • Từ khi bị triệu tập, nghi vấn phạm tội: có thể thuê luật sư ngay từ đầu để bảo vệ quyền lợi, có thể bị hình sự hóa trong quan hệ hình sự trong quá trình điều tra xét xử.
  • Giai đoạn tạm giam điều tra: Luật sư tiếp xúc trực tiếp với bị can/thân chủ hỏi cung, đối chất, đề xuất, kiến nghị tới cơ quan tiến hành tố tụng, yêu cầu họ thực hiện đúng quy định pháp luật để bảo cho thân chủ.
  • Tham gia bảo vệ (bào chữa) cho thân chủ tại những phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Giúp phiên tòa có cái nhìn khách quan hơn về động cơ, hoàn cảnh của thân chủ.
  • Luật sư hình sự là người am hiểu pháp luật, vận dụng những kỹ năng của một người luật sư, linh hoạt, mềm dẻo trong quá trình làm việc với cơ quan điều tra, cơ quan tiến hành tố tụng, tranh tụng giúp bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho thân chủ của mình.
  • Luật sư hình sự sẽ là người tư vấn đưa ra những giải pháp tốt nhất, đảm bảo đúng quy định pháp luật cho thân chủ của mình.

Đối với người bị hại thì Luật sư hình sự sẽ giúp ích những gì?

  • Luật sư thu thập chứng cứ
  • Tư vấn pháp luật hình sự cho người bị hại hiểu được hành vi của bi can/bị cáo biết được tội danh mà cơ quan điều tra khởi tố với người phạm tội đã đúng hay chưa
  • Giúp cho người bị hại soạn thảo các đơn từ kiến nghị để việc khởi tố/truy tố đối với bị can gây ra thương tích, gây ra thiệt hại cho người bị hại là “đúng người đúng tội”
  • Vấn đề về bồi thường: Luật sư tư vấn soạn thảo tính toán mức bồi thường để đưa ra yêu cầu xém xét bồi thường.

Tiêu chí để lựa chọn dịch vụ luật sư hình sự là gì?

Thông thường, mọi người có xu hướng lựa chọn luật sư thông qua quen biết vì cho rằng luật sư thông qua quen biết sẽ có độ tín nhiệm cao hơn hoặc là và có thể “nhờ vả” được. vậy đây có phải là một tiêu chí để lựa chọn luật sư?

Theo quy định tại quy tắc số 5 Quyết định số 201/QĐ-HĐLSTQ của liên đoàn luật sư Việt Nam về quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam thì một trong những quy tắc hành nghề chính là bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng, đây là một trong những quy tắc mà bất kì luật sư nào cũng thuộc nằm lòng.

Hơn nữa, hiện nay cuộc cách mạng cải cách tư pháp đã loại bỏ rất nhiều tiêu cực trong hoạt động tố tụng, quá trình xét xử, theo thông tư liên tịch số 03/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP quá trình xét xử phải được ghi âm ghi hình đảm bảo sự minh bạch rõ ràng tránh những hoạt động, hành vi tiêu cực trong xét xử.

Bất kỳ luật sư nào cũng có nghĩa vụ bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích cho thân chủ của mình, và quy trình hoạt động tố tụng cũng đã được quy định chặt chẽ hơn, các hoạt động tiêu cực cũng từ đó bị triệt tiêu dần. Do đó, yếu tố người thân người quen không phải là một trong những yếu tố, tiêu chí để lựa chọn luật sư, mà tiêu chí để lựa chọn luật sư bao gồm những tiêu chí sau:

  • Luật sư có chuyên môn trong lĩnh vực hình sự, đây là một yếu tố quan trọng của một luật sư hình sự vì phải hiểu rõ lý luận pháp luật, cập nhật thường xuyên những thay đổi của pháp luật, am hiểu cơ chế hoạt động điều tra thì mới có thể bảo vệ tốt cho thân chủ của mình.
  • Luật sư có kinh nghiệm trong hoạt động tố tụng hình sự, trong thực tiễn và tham gia tố tụng trong nhiều vụ án vì càng tham gia nhiều vụ án thì càng tích lũy được nhiều bản lĩnh, kinh nghiệm thâm niên lâu có thể giải quyết được không chỉ những vấn đề pháp luật mà vấn đề quan hệ với các cơ quan tố tụng, cơ quan điều tra.
  • Thấu hiểu hoàn cảnh, động cơ, lý do, hoàn cảnh của thân chủ ví dụ như: do hoàn cảnh khó khăn, do nền tảng gia đình không tốt, do rơi vào tình thế bắt buộc, … từ đó mới xây dựng được phương án, cung cấp dịch vụ tốt nhất cho thân chủ.
  • Chi phí dịch vụ luật sư, tùy vào từng trường hợp, vụ việc cụ thể chi phí luật sư sẽ khác nhau, có những vụ án có tính chất phức tạp, thì ngoài chi phí luật sư còn nhiều chi phí khác như chi phí giám định thương tích thương tật, giám định tự thi, chi phí dựng hiện trường, … Do đó, Tùy vào từng vụ việc cụ thể và hoàn cảnh của thân chủ để đưa ra mức phí phù hợp.

Phí dịch vụ luật sư hình sự được tính như thế nào?

Một trong những nguyên tắc hành nghề luật sư phải thông báo rõ ràng mức thù lao, chi phí cho khách hàng, tuy nhiên, vì tính chất nhạy cảm của vụ án hình sự, chi phí dịch vụ hình sự không giống như các chi phí dịch vụ luật sư khác, không có mức phí cố định, rõ ràng.

Như đã đề cập ở trên, tùy vào từng trường hợp cụ thể của vụ việc mà phí dịch vụ luật sư sẽ khác nhau. Chi phí luật sư trong vụ án hình sự rất phức tạp, tùy vào từng sự việc, luật sư đưa ra mức chi phí cụ thể, do đó, quý khách hàng cần phải gặp trực tiếp với luật sư của công ty luật để có thể trao đổi và đánh giá tính phức tạp của vụ việc mới có thể đưa ra được mức phí phù hợp

Ngoài chi phí dịch vụ luật sư, còn có những khoản phí riêng khác, không nằm trong chi phí dịch vụ luật sư như:

  • Chi phí giám định thương tật
  • Chi phí cho người làm chứng
  • Chi phí bồi thường dân sự

Có cam kết kết quả trong vụ án hình sự không?

Công ty luật Dragon của chúng tôi đảm bảo thực hiện công việc theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định và đảm bảo tuân thủ đúng 27 quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam theo quy định tại Quyết định số 201/QĐ-HĐLSTQ ngày 13/12/2019 của Hội Đồng luật sư toàn quốc.

Công ty chúng tôi luôn đặt quyền lợi khách hàng lên đầu, cam kết giữ bí mật những thông tin liên quan đến khách hàng, đem những hiểu biết, kinh nghiệm trong hoạt động tố tụng hình sự, sự tận tâm, nhiệt tình của mình đến cho khách hàng.

Trên đây là toàn bộ nội dung bài giới thiệu dịch vụ luật sư hình sự và hướng dẫn cách chọn luật sư hình sự. Quý khách hàng nếu có nhu cầu sử dụng dịch vụ luật sư hình sự của công ty chúng tôi hoặc có thắc mắc về chính sách dịch vụ luật sư của công ty vui lòng liên hệ hotline 098.301.9109 để được tư vấn và hỗ trợ kịp thời.

Luật Dragon nhận hỗ trợ “tư vấn” trực tuyến 24/24 qua các hình thức như sau:

  • Tư vấn pháp luật qua EMAIL: congtyluatdragon@gmail.com
  • Tư vấn pháp luật qua FACEBOOK: Fanpage Luật Dragon
  • CÔNG TY LUẬT DRAGON

    LUÔN ĐỒNG HÀNH CÙNG QUÝ KHÁCH!

    TRỤ SỞ CHÍNH CÔNG TY LUẬT DRAGON:

    Add: Phòng 14.6, Tòa nhà Vimeco, Lô 9E, Đường Phạm Hùng, Quận Cầu Giấy, Hà Nội.

    Tel: 1900. 599. 979

    VĂN PHÒNG ĐẠI DIỆN LUẬT SƯ TẠI QUẬN LONG BIÊN:

    Add: Số 24 ngách 29 Phố Trạm phường Long Biên, quận Long Biên, thành phố Hà Nội

    Tel : 1900. 599. 979

    VĂN PHÒNG LUẬT SƯ TẠI HẢI PHÒNG:

    Add: Số 102, Lô 14 đường Lê Hồng Phong, Phường Đằng Lâm,Quận Hải An, Hải Phòng.

    Tel : 1900. 599. 979

    VĂN PHÒNG LUẬT SƯ TẠI TP HCM:

    Tel : 1900. 599. 979

    =====================

    BAN GIÁM ĐỐC CÔNG TY LUẬT DRAGON:

    Luật Sư Nguyễn Minh Long

    Điện Thoại: 098.301.9109

    Email: dragonlawfirm@gmail.com

Quy trình giải quyết vụ án hình sự

Từ khóa: thuê luật sư vụ án hình sự,Giá thuê luật sư,Chi phí thuê luật sư vụ án hình sự,Có nên thuê luật sư,Chi phí thuê luật sư có được bồi thường,Hợp đồng thuê luật sư,Chi phí thuê luật sư bào chữa, chi phí thuê luật sư bào chữa

Luật sư bào chữa giỏi tại Hải Phòng

Xã hội càng phát triển, nghề luật sư càng có vai trò quan trọng. Hằng ngày, nhiều tranh chấp, kiện tụng phát sinh và luật sư phải đứng ra tranh đấu để bảo vệ lẽ phải, công lý.

Bảo vệ lẽ phải

Luật sư Nguyễn Minh Long ở Văn phòng luật sư Dragon (Chi nhánh Hải Phòng) đã có gần 10 năm gắn bó với nghề. Giống như nhiều đồng nghiệp khác, công việc trong ngày của anh khá bận rộn và luôn phải di chuyển. Từ việc xếp lịch gặp khách hàng, lịch làm việc tại tòa án, đi thu thập chứng cứ… đều được anh thực hiện một cách cẩn trọng. Nhiều khi các luật sư còn trở thành chuyên gia tâm lý giúp thân chủ và người nhà yên tâm, tin tưởng vào lẽ phải.

Luật sư Long cho biết: “Nhiệm vụ của chúng tôi là bảo vệ công lý và lẽ phải. Vì vậy, mỗi vụ việc đều phải được tìm hiểu một cách kỹ lưỡng, chính xác, mất nhiều thời gian, công sức. Chỉ cần một sai sót cũng có thể dẫn đến những hậu quả khó lường”.

Giữ tâm trong sáng

Luật sư Long chia sẻ, hơn 10 năm gần đây, xã hội, con người có nhiều thay đổi, phát sinh nhiều mâu thuẫn phức tạp. Các vụ án liên quan đến kinh tế, hình sự, tranh chấp đất đai, hôn nhân – gia đình xảy ra nhiều hơn, phức tạp hơn. Vì thế, công việc của giới luật sư cũng vất vả gấp nhiều lần. Tuy nhiên, anh quan niệm phải luôn giữ tâm trong sáng để mỗi vụ việc đều được xử lý chính xác, theo đúng pháp luật. Nhiều lúc, các luật sư còn trở thành chuyên gia tư vấn  miễn phí.

Năm 2012, luật sư Long nhận tư vấn thủ tục ly hôn cho một phụ nữ ngoài 50 tuổi ở Quận Hồng Bàng. Do người chồng làm thợ xây nên hay đi nhiều nơi, có quan hệ phức tạp, về nhà thường chửi mắng vợ con. Không chịu nổi tình cảnh này, người vợ quyết định ly hôn. Qua tiếp xúc và tìm hiểu câu chuyện, anh Phán nhận thấy vẫn có cơ hội cứu vãn cuộc hôn nhân này. Bằng vốn kinh nghiệm qua từng vụ án và đời sống thường ngày, anh phân tích, giảng giải để người phụ nữ kia hiểu được điều hơn, thiệt. Lúc đầu, người phụ nữ này không nghe mà cương quyết đưa chồng ra tòa. Tuy nhiên, sau nhiều lần tiếp xúc, động viên, phân giải, họ đã chữa lành được vết thương, bỏ qua những lỗi lầm để hàn gắn trở lại.

Một số người vẫn hay nghĩ luật sư là nghề có nhiều quan hệ, kiếm được nhiều tiền nhưng thực tế những khó khăn, vất vả chỉ có người trong nghề mới hiểu hết. Để có thể trở thành một luật sư phải trải qua một thời gian dài học tập và đào tạo. Theo quy định, ngoài tấm bằng cử nhân, luật sư phải qua lớp đào tạo kỹ năng hành nghề luật sư, thời gian tập sự và thi qua kỳ thi kết thúc tập sự. Thời gian này tối thiểu là 6 năm hoặc có thể kéo dài hơn. Có người theo đuổi cả chục năm mới trở thành một luật sư.

Luật sư Long cho biết: “Công việc vất vả lắm nhưng thu nhập của anh em luật sư cũng chỉ đủ sống. Nhiều khi gặp trường hợp khó khăn, người cao tuổi, gia đình chính sách, chúng tôi chỉ làm giúp chứ không nhận phí. Gặp người tốt, sau khi tư vấn hay hoàn tất vụ việc thì họ đến có lời cảm ơn. Nhưng cũng có trường hợp mình thấy vấn đề của họ khiếu nại là sai, phân tích để nhận ra lẽ phải thì họ phản ứng ra mặt, thậm chí còn có những lời nói không đúng mực. Dù vậy, chúng tôi vẫn luôn giữ vững cái tâm với nghề”.

Công việc vất vả nên không phải ai cũng gắn bó được với nghề. Vì thế, người trẻ thường ít chọn học luật và đầu tư thời gian, chất xám để trở thành luật sư. Hiện nay, Hải Phòng có hơn 100 luật sư đang hành nghề, trong đó có khoảng 30 người là người cao tuổi, đã nghỉ hưu. Chỉ có tình yêu nghề mới giúp họ gắn bó với nghề luật sư trong thời gian dài. Mặc dù khó khăn là thế nhưng các luật sư như anh Long  luôn tin rằng nghề luật sư sẽ có triển vọng trong tương lai vì góp phần bảo đảm công bằng xã hội.

Văn phòng luật sư Dragon Hải Phòng

Khi nào cần thuê luật sư bào chữa

Thuê luật sư là việc người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị buộc tội, bị can, bị cáo và người thân thích của họ là cha, mẹ, vợ, con, ông, bà… thuê luật sư bào chữa cho trường hợp của gia đình nhà mình

Vai trò của Luật sư, luật sư tham gia vụ án hình sự với vai trò là người bào chữa, khi thực hiện bào chữa cho người bị buộc tội, người bị tạm giữ, người bị tạm giam, bị can, bị cáo trong tất cả các giai đoạn từ Điều tra vụ án, khởi tố vụ án, Truy tố vụ án và xét xử vụ án, luật sư sẽ thực hiện các quyền bào chữa để bảo chữa cho các bị can, bị cáo.

Thuê luật sư bào chữa cho người bị bắt là trường hợp người bị tình nghi hay còn gọi là nghi can có thể bị bắt quả tang hoặc bị tạm giữ song bắt hoặc bị mời về làm việc tại trụ sở cơ quan điều tra song bắt, trong tường hợp này người bị bắt có quyền thuê luật sư để bào chữa cho mình. Việc luật sư tham gia bào chữa từ giai đoạn này là hết sức cần thiết vì tham gia ngay từ ban đầu sẽ bảo đảm được quyền của người bị bắt cũng như làm sáng tỏ các sự kiện khách quan của vụ án

Thuê luật sư bảo chữa cho bị can khi phạm tội Khi một ai đó có hành vi phạm tội đã bị cơ quan Cảnh sát điều tra, cơ quan Công an khởi tố vụ án và khởi tố bị can, lúc đó người bị khởi tố trở thành bị can và có quyền mời luật sư bào chữa cho mình để tham gia vào vụ án. Luật sư khi tham gia bào chữa cho bị can sẽ giúp đỡ bị can về mặt pháp luật, sử dụng các biện pháp cần thiết và hợp pháp để bảo vệ bị can. Quá trình bào chữa của luật sư cho bị can từ khi bị mời lên làm việc, khi bị khởi tố tại cơ quan Điều tra, khi bị Viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền truy tố bị can bằng Bản cáo trạng và cho đến khi Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử. nói như vậy không có nghĩa là luật sư sẽ chấm dứt tư cách bào chữa cho bị can mà tư cách của bị can được chuyển sang thành tư cách Bị cáo.

Thuê luật sư bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa: Khi một bị can hay người bị buộc tội bị Tòa án nhân dân có thẩm quyền có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì lúc đó được chuyển sang một tư cách mới là tư cách bị cáo, Luật sư người bào chữa tiếp tục bào chữa cho bị cáo trong toàn bộ quá trình xét xử vụ án ở giai đoạn sơ thẩm hoặc phúc thẩm nếu bị cáo có kháng cáo và tiếp tục mời luật sư bào chữa cho mình. Luật sư bào chữa cho bị cáo có những quyền và nghĩa vụ nhất định, tư vấn và hỗ trợ pháp lý cũng như trao đổi với bị cáo để sao cho bào chữa cho bị cáo được tốt nhất.

Thuê luật sư tham gia vụ án hình sự là trường hợp đã xác định một vụ án hình sự, vụ án có thể hình thành từ giai đoạn khởi tố vụ án, khởi tố bị can và tiến hành điều tra hoặc có thể vụ án đã được Viện kiểm sát có thẩm quyền tiến hành xem xét truy tố ra tòa án và cũng có thể vụ án đã được tòa án chuẩn bị đưa ra xét xử sơ thẩm hoặc xét xử phúc thẩm. Luật sư tham gia vào vụ án hình sự sẽ thực hiện các nhiệm vụ quyền hạn của người bào chữa để nghiên cứu hồ sơ và bào chữa cho người được bào chữa.

Thuê luật sư bảo vệ cho người bị hại trong vụ án hình sự: Trong vụ án hình sự liên quan đến thiệt hại luật sư sẽ tham gia bảo vệ quyền và lợi ích của người bị hại, tham gia và các giai đoạn tố tụng tại Cơ quan Điều tra, Công an, Viện Kiểm sát và Tòa án; sao chụp hồ sơ tài liệu, thu thập chứng cứ và đưa ra cũng như bảo vệ các yêu cầu về bồi thường thiệt hịa cho người bị hại. Trong quá trình tranh tụ tại Tòa án, Luật sư sẽ phát biểu quản điểm luận tội đối với các bị cáo đã gây ra cho bị hại; nếu vụ án cần phải kháng cáo luật sư sẽ giúp bị hại thực hiện việc kháng cáo bản án theo quy định.

Thuê luật sư bào chữa cho người chưa thành niên, người chưa thành niên khi phạm tội là người dưới 18 tuổi, theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự thì đây là những người đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (14 tuổi) nhưng chưa thành niên (dưới 18 tuổi) khi phạm tội thì bắt buộc phải có luật sư. Thông thường bố mẹ hoặc người đại diện hợp pháp hay người giám hộ sẽ thuê luật sư bào chữa. Trường hợp không thể có điều kiện thuê luật sư thì cơ quan tiến hành tố tụng sẽ yêu cầu Đoàn luật sư chỉ định luật sư bào chữa. Đây là quyền cơ bản của người dưới thành niên để có thể bào chữa cho hộ được tốt nhất.

Luật sư bào chữa để trả hồ sơ điều tra bổ sung là trường hợp luật sư tham gia bào chữa cho bị can, bị cáo trong vụ án hình sự và vào từng giai đoạn cụ thể có thể là giai đoạn truy tố tại Viện kiểm sát, Luật sư kiến nghị việc trả hồ sơ cho cơ quan Điều tra để tiến hành điều tra bổ sung hoặc sau khi Viện kiểm sát đã quyết định truy tố bằng Bản cáo trạng ra Tòa án có thẩm quyền thì Luật sư kiến nghị Thẩm phán thụ lý vụ án ra Quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung hoặc Tại phiên tòa luật sư bào chữa để Hội đồng xét xử trả hồ sơ điều tra bổ sung.

Giai đoạn mà luật sư có quyền tham gia theo quy định tại Bộ luật TTHS, Luật Luật sư và các văn bản pháp luật liên quan, cụ thể:

I. Giai đoạn tố tụng mà luật sư có thể tham gia

Theo quy định tại khoản 2 Điều 72 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 (BLTTHS) thì người bào chữa có thể là:

“a) Luật sư;

b) Người đại diện của người bị buộc tội;

c) Bào chữa viên nhân dân;

d) Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý.”

Bên cạnh đó, Điều 74 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định về thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng như sau:

“Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can.

Trường hợp bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ.

Trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.”

Căn cứ những quy định trên, luật sư có thể tham gia tố tụng để bào chữa cho em bạn khi em bạn hoặc gia đình bạn có giấy mời luật sư sau đó Luật sư sẽ tiến hành những thủ tục cần thiết để được cấp Giấy chứng nhận bào chữa theo quy định của BLTTHS và những văn bản có liên quan.

II. Quyền hạn của Luật sư (người bào chữa)

Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa được quy định cụ thể tại Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 như sau:

“1. Người bào chữa có quyền:

a) Gặp, hỏi người bị buộc tội;

b) Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can;

c) Có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này;

d) Được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này;

đ) Xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình, quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;

e) Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế;

g) Đề nghị tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này; đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

h) Thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

i) Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;

k) Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản;

l) Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa từ khi kết thúc điều tra;

m) Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa;

n) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

o) Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất theo quy định của Bộ luật này.

Bạn có thể tham khảo thêm nội dung tư vấn áp dụng văn bản pháp luật theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003:

I. Giai đoạn tố tụng mà luật sư có thể tham gia

Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) thì người bào chữa có thể là:

1.  Luật sư;

2.  Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;

3.  Bào chữa viên nhân dân.

Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 58 BLTTHS có quy định: Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can, Trong trường hợp bắt người theo quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.

Căn cứ những quy định trên, luật sư có thể tham gia tố tụng để bào chữa cho em bạn khi em bạn hoặc gia đình bạn có giấy mời luật sư sau đó Luật sư sẽ tiến hành những thủ tục cần thiết để được cấp Giấy chứng nhận bào chữa theo quy định của BLTTHS và những văn bản có liên quan.

II. Quyền hạn của Luật sư (người bào chữa)

Theo quy định tại khoản 2 Điều 58 BLTTHS thì Luật sư (người bào chữa) có quyền:

1.  Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;

2.  Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can;

3.  Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này;

4.  Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác;

5.  Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

6.  Gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam;

7.  Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật;

8.  Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà;

9.  Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

10. Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Thuê luật sư bào chữa hình sự ở Hà Nội

Gọi cho một luật sư chuyên hình sự tại Hà Nội : 1900. 599. 979

Bạn đã bị buộc tội về một tội ác mà bạn đã không phạm phải và tìm kiếm công lý nhanh chóng và không bị tổn thương trong khi duy trì danh dự và nhân phẩm của bạn? Hoặc, có lẽ bạn đã là nạn nhân của một tội ác và tìm kiếm sự trừng phạt hợp pháp đối với những người đã làm hại bạn hoặc gia đình bạn. Bạn thậm chí có thể tự mình phạm tội và mong muốn giải quyết tốt nhất có thể. Bất kể nguyên nhân hay động cơ, Văn phòng Luật sư Dragon sẽ tạo điều kiện cho công lý nhanh chóng và phù hợp cho các khách hàng tại Hà Nội và Hải Phòng của chúng tôi để họ nhận được phán quyết tốt nhất có thể.

Đó là, nếu bạn đã bị nhà nước buộc tội theo bộ luật hình sự, bắt buộc phải xuất hiện trước cơ quan quản lý hoặc muốn kháng cáo quyết định, Văn phòng Luật sư Dragon sẽ luôn cung cấp cho bạn sự hài lòng hoàn toàn. Hơn nữa, chúng tôi tính phí trên cơ sở lãi suất cố định để bạn nhận thức đầy đủ về các khoản chi tiêu trước khi chúng tôi thực hiện trường hợp của bạn. Bạn sẽ không bao giờ phải lo lắng về các cáo buộc ẩn hoặc những bất ngờ khó chịu khác trước và sau khi phán quyết được đưa ra.

Hơn nữa, Văn phòng Luật sư Dragon sẽ luôn bảo vệ bạn một cách trung thực và đạo đức. Chúng tôi sẽ sử dụng mọi phương tiện theo ý của chúng tôi để đảm bảo rằng công lý được đáp ứng và bạn sẽ nhận được phán quyết tốt nhất có thể, đưa ra bằng chứng. Văn phòng luật sư Dragon cũng sẽ tham khảo đầy đủ với bạn về các tùy chọn có sẵn và đề xuất lựa chọn tốt nhất cho nhu cầu duy nhất của bạn. Đó là, chúng tôi luôn đặt lợi ích tốt nhất của bạn lên hàng đầu và sẽ thực hiện các bước chủ động để vượt ra ngoài sự đại diện đơn thuần.

Ví dụ, các luật sư hình sự tại Hà Nội của chúng tôi được yêu cầu đăng ký vào các chương trình sáng kiến ​​giáo dục thường xuyên để họ cập nhật kiến thức hiểu biết hệ thống pháp lý – và tất cả các sắc thái của nó – một cách triệt để. Chúng tôi cũng đầu tư vào nghiên cứu và phát triển công nghệ để đảm bảo rằng kiến ​​thức về các đạo luật pháp lý của chúng tôi luôn cập nhật và chính xác.

Do đó, nếu bạn đã bị buộc tội hoặc là nạn nhân của tội phạm, bạn sẽ cần một luật sư pháp lý tốt nhất để đưa ra phán quyết mà bạn mong muốn. Các công tố viên và luật sư hình sự tận tâm, có kinh nghiệm và có trình độ học vấn cao của chúng tôi có một hồ sơ theo dõi thành công đã được chứng minh và có khả năng sẽ tạo điều kiện cho bản án mà bạn và gia đình bạn mong muốn. Hơn nữa, chúng tôi đã xử lý các vụ án hình sự từ rửa tiền đến giết người hàng loạt. Do đó, không có vụ án hình sự nào ở Hà Nội quá tầm thường hay khó khăn đối với các luật sư hình sự tại Văn phòng Luật sư Dragon.

Hãy cho chúng tôi về trường hợp hay vụ việc của bạn

Đại diện tư vấn trực tiếp của chúng tôi luôn sẵn sàng 24/7 để hỗ trợ bạn và có thể lên lịch tư vấn với chuyên gia luật của chúng tôi.

Thuê luật sư bào chữa cho người bị bắt

Thuê luật sư bào chữa cho người bị bắt là trường hợp người bị tình nghi hay còn gọi là nghi can có thể bị bắt quả tang hoặc bị tạm giữ song bắt hoặc bị mời về làm việc tại trụ sở cơ quan điều tra song bắt, trong tường hợp này người bị bắt có quyền thuê luật sư để bào chữa cho mình.

Người bị bắt tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt tạm giữa người bị bắt tạm giữ được nghe, nhận lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, quyết định phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp;

Người bị bắt tạm giữ trong trường hợp khẩn cấp có các quyền:

– Được biết lý do mình bị giữ;

– Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự;

– Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;

– Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

– Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tố tụng kiểm tra, đánh giá và các quyền khác

Người bị bắt tạm giữ có được quyền nhờ luật sư. Theo quy định thì người bị bắt tạm giữ có quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật sư bảo chữa cho mình. Nếu nhờ luật sư bào chữa họ có quyền yêu cầu cơ quan đang thụ lý vụ việc liên hệ luật sư để họ có thể nhờ luật sư bào chữa cho mình, ngoài ra họ cũng có các quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc giữ người, bắt người.

Người bị bắt theo quy định tại Điều 58 Bộ luật Tố tụng hình sự thì là bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc bắt theo quyết định truy nã. Khi bị bắt người bị bắt có các nghĩa vụ chấp hành lệnh bắt người và yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền bắt người theo quy định của pháp luật.

Người bị bắt khi bị bắt có quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật sư bào chữa và một số quyền cơ bản sau:

Được biết lý do mình bị giữ, bị bắt;
Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;
Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tố tụng kiểm tra, đánh giá;
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc giữ người, bắt người. Và một số quyền khác.
Khi bị tạm giữ có được thuê luật sư? Người bị tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ. Ngoài các quyền cơ bản được quy định tại Khoản 2 Điều 59 Bộ luật Tố tụng hình sự thì người bị tạm giữ có quyền tự bào chữa hoặc thuê luật sư bào chữa.

Thuê luật sư bào chữa tại Công ty luật Dragon. Vui lòng liên hệ: 1900.599.979

 

Khi chưa khởi tố mà nhận được giấy triệu tập của công an có nên thuê luật sư bào chữa

Tôi có giấy triệu tập của công an thành phố, liên quan đến tội trộm cắp xảy ra do bạn tôi làm đơn, mặc dù tôi khẳng định tôi không liên quan đến sự việc của bạn tôi mất trộm? mất bao nhiêu tiền? mất ở đâu ? như thế nào? bạn ấy làm đơn vu khống cho tôi.. Tôi bị công an gọi điện mời tôi, tôi vì không hiểu pháp luật nên đã ký hợp đồng thuê luật sư bào chữa bảo vệ cho tôi, đến lịch hẹn làm việc theo giấy triệu tập? Luật sư của tôi đi cùng tôi đến xuất trình tại công an điều tra như giấy giới thiệu, đơn mời luật sư bào chữa và thẻ luật sư, nhưng bên công an đã từ chối không cho luật sư bào chữa cho tôi tham gia với lý do, hiện nay chưa khởi tố vụ án, chưa khởi tố tôi, công an chỉ mời lên làm rõ sự việc, công an đề nghị tôi và luật sư bổ sung thêm hợp đồng dịch vụ pháp lý? Lúc đấy tôi thấy luật sư bảo tôi cứ làm việc với công an và luật sư bỏ ra về. Tôi rất hoang mang và đã bị sốc nên từ chối không làm việc với công an và xin hẹn buổi khác, tôi có nói với công an là phải có luật sư thì tôi mới làm việc sau đó tôi đi về. Luật sư của tôi không giải thích cho tôi biết lý do và ý kiến của cơ quan điều tra đúng hay sai? Nay tôi nhờ luật sư tư vấn ý kiến của công an như vậy có đúng không? luật sư bảo vệ cho tôi làm như vậy có đúng không? Tôi rất hoang mang khi tìm chọn một công ty luật có uy tín mà lại có một luật sư hành xử như vậy? Rất mong Công ty luật Dragon tư vấn gấp cho tôi.

Phúc đáp yêu cầu tư vấn pháp luật của anh/chị, đề nghị cho ý kiến về một số nội dung pháp lý liên quan đến việc: người bị kiến nghị khởi tố/bị tố giác có được mời Luật sư không, Luật sư Công ty luật Dragon có ý kiến như sau:

*) Đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác:

Theo như trình bày thì anh/chị đang bị tố giác về hành vi trộm cắp tài sản. Khoản 1 Điều 83 Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác là người được người bị tố giác nhờ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Luật sư là một trong những người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác (điểm a khoản 2 Điều 83 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015). Như vậy, anh/chị có quyền mời Luật sư để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình ngay từ khi bị tố giác (từ khi chưa có quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can).

Khoản 1 Điều 27 Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi bổ sung năm 2012) quy định: “Hoạt động tham gia tố tụng của luật sư phải tuân theo quy định của pháp luật về tố tụng và Luật này”.

Bộ Luật Tố tụng hình sự không quy định rõ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác phải xuất trình những giấy tờ gì khi làm việc với Cơ quan Cảnh sát điều tra. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm làm việc thực tế của Luật sư và quy định tại điểm a khoản 2 Điều 78 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì những giấy tờ Luật sư cần xuất trình khi làm việc với Cơ quan CSĐT là: Giấy giới thiệu của công ty luật cử luật sư đến cơ quan điều tra làm việc, Thẻ luật sư kèm theo bản sao có chứng thực và giấy yêu cầu đơn mời luật sư của người bị tố giác ( anh chị cũng như Luật sư không phải xuất trình Hợp đồng dịch vụ pháp lý).

Như vậy, việc công an từ chối không cho luật sư tham gia với lý do: hiện nay chưa khởi tố vụ án, chưa khởi tố bị can, công an chỉ mời lên làm rõ sự việc và đề nghị anh và luật sư bổ sung thêm hợp đồng dịch vụ pháp lý là vi phạm tố tụng.

*) Quyền của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác:

Khoản 3 Điều 83 Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 quy định: Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác có quyền:

  1. a) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
  2. b) Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
  3. c) Có mặt khi lấy lời khai người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố và nếu được Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên đồng ý thì được hỏi người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố. Sau mỗi lần lấy lời khai của người có thẩm quyền kết thúc thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có quyền hỏi người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố;
  4. d) Có mặt khi đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố;

đ) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Luật sư bào chữa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của anh/chị không đưa ra ý kiến nào và bỏ về khi bị công an từ chối là không thực hiện quyền của mình theo quy định trên. Không bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp tốt nhất cho khách hàng. Việc anh/chị từ chối không làm việc với công an, xin hẹn buổi khác và nói với công an là phải có luật sư bào chữa cho anh/chị thì anh/ chị mới làm việc với cơ quan điều tra là đúng với quy định của pháp luật.

Trên đây là quan điểm ý kiến của Thạc sĩ Luật sư Nguyễn Minh Long Giám đốc Công ty Luật Dragon – Đoàn Luật sư TP. Hà Nội về nội dung vụ viêcj trên.

Để biết thêm thông tin chi tiết bạn có thể liên hệ với Luật sư Hà Nội và Luật sư Hải Phòng theo địa chỉ dưới đây.

  1. Trụ sở chính Công ty Luật Dragon tại quận Cầu Giấy:  Phòng 6, Tầng 14, Tòa nhà VIMECO, Đường Phạm Hùng, Phường Trung Hòa, Quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội.
  2. VPĐD luật sư Công ty luật Dragon tại quận Long Biên: Số 24 Ngõ 29 Phố Trạm, phường Long Biên, quận Long Biên, Tp Hà Nội.
  3. Chi nhánh Công ty Luật Dragon tại Hải Phòng: Phòng 6 tầng 4 Tòa Nhà Khánh Hội, đường Lê Hồng Phong, quận Hồng Bàng, Tp Hải Phòng.

Công ty Luật Dragon cung cấp biểu phí và thù lao luật sư bào chữa tham khảo tại đây

Trân trọng!

CÔNG TY LUẬT DRAGON

Luật sư chuyên bào chữa vụ án hình sự

ĐIỀU LUẬT

ÁN LỆ